| Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2021 – 2025 | Thông tin | Tin | Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2021 – 2025 | /Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg | | 1/20/2021 5:00 PM | No | Đã ban hành | | Ngày 19/01/2021, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 80/QĐ-TTg phê duyệt chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2021 – 2025. 
Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2021 – 2025 với mục tiêu chung là triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả, thiết thực Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa ngày 12/6/2017, Nghị định số 55/2019/NĐ-CP ngày 24/6/2019 của Chính phủ về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa; đồng thời, kế thừa, phát huy kết quả của Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành dành cho doanh nghiệp giai đoạn 2015 - 2020. Chương trình đề ra 03 nhóm mục tiêu cụ thể tương ứng với 03 nhóm nội dung của chương trình, như sau: Một là, cung cấp thông tin pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, gồm: (i) xây dựng, quản lý, duy trì, cập nhật, khai thác và sử dụng 01 cơ sở dữ liệu về vụ việc, vướng mắc pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa; (ii) cung cấp các chính sách, đề án, chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa của các bộ, ngành, địa phương; (iii) tiếp nhận 100% phản ánh từ doanh nghiệp nhỏ và vừa để đề xuất, kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết vướng mắc, hoàn thiện pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật hiệu quả. Hai là, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho: (i) tối thiểu 30% doanh nghiệp nhỏ và vừa nhằm nâng cao hiểu biết, ý thức tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp phòng ngừa, giảm thiểu rủi ro pháp lý trong kinh doanh; (ii) tối thiểu 60% người làm công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa nhằm nâng cao năng lực hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Ba là, tổ chức các hoạt động tư vấn pháp luật, bao gồm: tư vấn trực tiếp cho doanh nghiệp nhỏ và vừa; tư vấn pháp luật qua diễn đàn, đối thoại và các hoạt động tư vấn khác phù hợp với quy định của pháp luật nhằm đảm bảo 100% đề nghị tư vấn của doanh nghiệp nhỏ và vừa thông qua Chương trình được giải quyết hoặc kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Quyết định số 80/QĐ-TTg phê duyệt chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2021 – 2025 có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký ban hành./. 81_QD-TTg.pdf
| False | Trần Thị Kim Yến | | Thực tiễn công tác đánh giá tác động thủ tục hành chính tại tỉnh Bình Dương giai đoạn 2015-2020 | Thông tin | Tin | Thực tiễn công tác đánh giá tác động thủ tục hành chính tại tỉnh Bình Dương giai đoạn 2015-2020 | /Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg | | 12/14/2020 10:00 AM | No | Đã ban hành | | 1. Thực tiễn thực hiện Từ năm 2015 đến nay, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương đã ban hành 69 thủ tục hành chính trong 12 văn bản quy phạm pháp luật. Trong đó, phần lớn các thủ tục hành chính ban hành trong giai đoạn trước khi Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 có hiệu lực. Từ khi Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 có hiệu lực (01/7/2016), Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành 02 văn bản quy phạm pháp luật có chứa thủ tục hành chính, cụ thể như sau: - Năm 2018, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành 01 Quyết định sửa đổi một số thủ tục hành chính đã ban hành; việc sửa đổi phù hợp với Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14 tháng 5 năm 2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và hướng dẫn của Bộ Tư pháp tại Công văn số 4218/BTP-VĐCXDPL ngày 28 tháng 11 năm 2016 về việc trả lời một số quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015. Đồng thời, việc ban hành văn bản sửa đổi này không làm phát sinh thủ tục hành chính mới, không làm phức tạp thêm đối với thủ tục hành chính đang thực hiện. - Năm 2019, Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành 01 Nghị quyết có quy định 01 thủ tục hành chính; đây là trường hợp ban hành Nghị quyết thuộc khoản 4 Điều 27 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 "Hội đồng nhân dân cấp tỉnh ban hành Nghị quyết để quy định biện pháp có tính chất đặc thù phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của địa phương"; phù hợp với hướng dẫn của Bộ Tư pháo tại Công văn số 4218/BTP-VĐCXDPL, đảm bảo phù hợp với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách Nhà nước, đảm bảo tính hợp hiến, tính hợp pháp, tính thống nhất của hệ thống pháp luật. 2. Khó khăn, vướng mắc Căn cứ khoản 2 Điều 4 Thông tư số 07/2014/TT-BTP "Sở Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây viết tắt là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) có trách nhiệm hướng dẫn, đôn đốc các cơ quan chủ trì soạn thảo cùng cấp trong việc sử dụng biểu mẫu đánh giá tác động của thủ tục hành chính". Tại tỉnh Bình Dương, trước ngày 01 tháng 11 năm 2017, nhiệm vụ hướng dẫn, đôn đốc các cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật sử dụng các biểu mẫu đánh giá tác động thủ tục hành chính được giao cho Phòng Kiểm soát thủ tục hành chính thuộc Sở Tư pháp thực hiện. Tuy nhiên, từ ngày 01 tháng 11 năm 2017, Phòng Kiểm soát thủ tục hành chính (bao gồm tất cả các nhân sự của Phòng Kiểm soát thủ tục hành chính) chuyển về Văn phòng Ủy ban nhân dân (theo Quyết định số 2857/QĐ-UBND ngày 18 tháng 10 năm 2017 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương về việc chuyển giao phòng Kiểm soát thủ tục hành chính thuộc Sở Tư pháp sang Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh). Do đó, quá trình hướng dẫn, đôn đốc các cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật sử dụng các biểu mẫu đánh giá tác động thủ tục hành chính tại Sở Tư pháp gặp phải những khó khăn nhất định, cần sự hỗ trợ, hướng dẫn của Phòng Kiểm soát thủ tục hành chính thuộc Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh. Bên cạnh đó, đánh giá tác động thủ tục hành chính là một nội dung khó, các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh (cơ quan được giao chủ trì soạn thảo văn bản) chưa được tập huấn thường xuyên về công tác đánh giá tác động thủ tục hành chính. 3. Đề xuất, kiến nghị Từ những khó khăn trên, địa phương hy vọng Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục tăng cường công tác tập huấn chuyên sâu cho địa phương về công tác đánh giá tác động thủ tục hành chính; trong đó chú trọng tập huấn cho Sở Tư pháp về việc sử dụng các biểu mẫu đánh giá tác động thủ tục hành chính./. | False | | | Thực tiễn thực hiện công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp giai đoạn 2010-2020, một số vướng mắc, bất cập khi thực hiện và đề xuất, kiến nghị đẩy mạnh công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp giai đoạn 2021-2025 | Thông tin | Tin | Thực tiễn thực hiện công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp giai đoạn 2010-2020, một số vướng mắc, bất cập khi thực hiện và đề xuất, kiến nghị đẩy mạnh công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp giai đoạn 2021-2025 | /Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg | | 11/23/2020 10:00 AM | No | Đã ban hành | | 1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương Tỉnh Bình Dương được tái lập từ ngày 01/01/1997, là một tỉnh thuộc miền Đông Nam bộ, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có diện tích tự nhiên 2.694.6 km2, dân số 2.456,3 nghìn người, mật độ dân số 912 người/km2 (theo số liệu của Tổng cục thống kê cập nhật ngày 30/7/2020) Là một trong những tỉnh có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, phát triển công nghiệp năng động của cả nước. Năm 2019, tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP) tăng 9,5%; GRDP bình quân đầu người đạt 146,9 triệu đồng; cơ cấu kinh tế công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp –thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm với tỉ trọng tương ứng là 66,8% - 22,4% - 2,6% - 8,2%. Hiện nay, toàn tỉnh có 29 khu công nghiệp, diện tích 12.670 ha , tỷ lệ cho thuê đất đạt 84,5% và 12 cụm công nghiệp với tổng diện tích 790 ha, tỷ lệ cho thuê đất đạt 67,4%. Toàn tỉnh hiện có 47.583 doanh nghiệp, tổng vốn 424 ngàn tỷ đồng; có 3.909 dự án đầu tư nước ngoài, tổng vốn 35,2 tỷ đô la Mỹ. 2. Kết quả thực hiện công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2010-2020 Để tổ chức triển khai chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, hàng năm Sở Tư pháp Bình Dương đều tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Kế hoạch hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh (năm 2020, tỉnh ban hành Kế hoạch hỗ trợ pháp lý do doanh nghiệp vừa và nhỏ), trong đó chỉ đạo và phân công các sở, ban, ngành tỉnh; Uỷ ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố quán triệt chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiều hình thức, nội dung hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của ngành và tình hình thực tiễn tại địa phương; xây dựng kế hoạch hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp gắn với kế hoạch năm của ngành, địa phương. Đồng thời, tăng cường phối hợp giữa các cơ quan nhà nước với các tổ chức đại diện của doanh nghiệp trong việc tổ chức các hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Trong giai đoạn 2010-2020, công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Bình Dương đạt được một số kết quả nổi bật như sau: - Quản lý, duy trì, cập nhật, khai thác và sử dụng cơ sở dữ liệu về văn bản quy phạm pháp luật: Thực hiện Nghị định số 52/2015/NĐ-CP ngày 28/5/2015 của Chính phủ về cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật, Sở Tư pháp thường xuyên rà soát, cập nhật kịp thời, đầy đủ nội dung, hiệu lực thi hành của các văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành lên cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật; ngoài ra, các văn bản quy phạm pháp luật của tỉnh còn được đăng tải trên trang thông tin điện tử của tỉnh, trang thông tin điện tử của các sở, ngành tỉnh. Qua đó, góp phần minh bạch hệ thống pháp luật của địa phương; tạo điều kiện thuận lợi cho việc tra cứu, áp dụng pháp luật của người dân và doanh nghiệp. - Công tác tuyên truyền, hỗ trợ, tư vấn pháp luật cho người dân, doanh nghiệp: Ngoài các hình thức tuyên truyền miệng, cấp phát tài liệu, tờ gấp pháp luật miễn phí cho doanh nghiệp, khảo sát nhu cầu cần hỗ trợ pháp lý của doanh nghiệp...; Sở Tư pháp còn phối hợp chặt chẽ với các sở, ngành tỉnh, Báo Bình Dương, Đài Phát thanh - Truyền hình Bình Dương tổ chức thực hiện nhiều chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trên các phương tiện thông tin đại chúng, cụ thể như: Chương trình tuyên truyền, phổ biến pháp luật thông qua tiết mục "Pháp luật và Cuộc sống" phát sóng định kỳ hàng tháng; chuyên mục "Theo dòng thời sự", chương trình "Tư vấn pháp luật trực tiếp trên sóng FM"; xây dựng nội dung "Chạy chữ chân Chương trình Thời sự BTV1" và chạy chữ trên bảng thông tin điện tử trên các tuyến đường; Chương trình "Hộp thư truyền hình" để giải đáp các thắc mắc pháp luật của doanh nghiệp; Trang "Thông tin pháp luật" của Báo Bình Dương cung cấp nhiều tin, bài về những văn bản pháp luật mới, giải đáp nhiều câu hỏi pháp luật mà doanh nghiệp gửi đến Tòa soạn. Thực hiện Quyết định số 2139/QĐ-TTg ngày 28/11/2014 của Thủ tướng Chính phủ "Về việc tiếp tục thực hiện và điều chỉnh nội dung các dự án của Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành dành cho doanh nghiệp giai đoạn 2012-2014". Trên cơ sở các văn bản triển khai thực hiện hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp tại địa phương: Quyết định số 2575/QĐ-UBND ngày 17/10/2014 của UBND tỉnh "Về việc ban hành Phương án tổ chức hoạt động tư vấn pháp luật về thủ tục hành chính, tư vấn xúc tiến đầu tư và hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp tại khu hành chính mở của Trung tâm hành chính tỉnh Bình Dương"; Quyết định số 4370/QĐ-UBND ngày 30/12/2014 của UBND tỉnh "Về việc ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Tổ tư vấn về thủ tục hành chính và hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp". Trên cơ sở ủy quyền của UBND tỉnh, Sở Tư pháp đã ban hành Quyết định số 22/QĐ-STP ngày 30/01/2015 về việc thành lập Tổ Tư vấn về thủ tục hành chính và hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp,...Theo đó, phân công Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước thuộc Sở Tư pháp là thành viên thường trực của Tổ Tư vấn, các Tư vấn viên thuộc Sở Tư pháp thực hiện trực tư vấn tại Khu hành chính một cửa Tòa nhà Trung tâm Hành chính tỉnh 05 ngày/tuần, mỗi ngày có 02 Tư vấn viên trực tư vấn; đối với các Tư vấn viên thường trực thuộc các sở, ban, ngành tỉnh trực tư vấn 05 ngày/tuần tại trụ sở làm việc của cơ quan, đảm bảo mỗi ngày làm việc có ít nhất là 01 Tư vấn viên trực tư vấn. Tư vấn thực hiện với nhiều hình thức như: tư vấn trực tiếp, tư vấn qua điện thoại và qua thư điện tử trên nhiều lĩnh vực liên quan trực tiếp đến doanh nghiệp, chủ yếu thuộc lĩnh vực đầu tư, thuế, bảo hiểm xã hội, hải quan, đất đai, tài nguyên, môi trường, xác lập quyền sở hữu công nghiệp... Sau gần 06 năm chính thức đi vào hoạt động, tổng số vụ việc tư vấn thủ tục hành chính và hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp thông qua Tổ tư vấn về thủ tục hành chính và hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp là 1.557 trường hợp cá nhân và doanh nghiệp. Để làm tốt việc hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, trong thời gian qua, việc giải đáp pháp luật cho doanh nghiệp luôn được UBND tỉnh đặc biệt quan tâm. Vì đây là cầu nối giữa cơ quan Nhà nước với doanh nghiệp, nhằm giải đáp và tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp trong lĩnh vực pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư, các ngành chức năng của tỉnh như Cục Thuế, Cục Hải quan, Liên đoàn Lao động tỉnh, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Khoa học và Công nghệ… đã giải đáp nhiều câu hỏi của doanh nghiệp liên quan đến pháp luật qua điện thoại đường dây nóng, qua mục ý kiến người dân trên trang tin điện tử của ngành, qua cán bộ tiếp dân … Qua đó, nhiều hình thức hỗ trợ pháp lý đã được thực hiện mang lại hiệu quả tích cực cho môi trường đầu tư của địa phương, giúp doanh nghiệp nhiều lợi ích thiết thực. Phát huy kết quả này, mới Ủy ban nhân dân tỉnh đã chấp thuận cho Báo Bình Dương phối hợp với các sở, ban, ngành có liên quan tổ chức thực hiện chương trình tư vấn thủ tục hành chính, xúc tiến đầu tư và hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trên báo Bình Dương, báo điện tử và trên ấn phẩm Cung & Cầu của Báo Bình Dương. Năm 2015, báo đã mở chuyên mục giải đáp các thắc mắc liên quan đến chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, mở chuyên mục tư vấn pháp luật trên báo Bình Dương điện tử để doanh nghiệp tiện tra cứu, tham khảo nhằm đáp ứng nhu cầu tìm hiểu pháp luật, thông tin về tỉnh Bình Dương. Cùng với việc đưa vào hoạt động Trung tâm Hành chính công, giao diện mới của website tỉnh được xem là tiếng nói và địa chỉ cung cấp những thông tin chính thức liên quan đến tất cả các hoạt động chỉ đạo, điều hành của chính quyền tỉnh Bình Dương, tạo thêm kênh giải quyết các vướng mắc liên quan đến các hoạt động trong đời sống xã hội, nhất là giải quyết thủ tục hành chính cho người dân, doanh nghiệp. Đây là một bước tiến quan trọng trong quá trình hiện đại hóa nền hành chính Nhà nước, tạo môi trường đầu tư thông thoáng, thuận lợi cho doanh nghiệp, nâng cao mức độ hài lòng của nhân dân, doanh nghiệp đối với chính quyền tỉnh Bình Dương, tiến tới xây dựng nền hành chính phục vụ, công khai, minh bạch; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và để tạo bước đột phá trong cải cách hành chính và tạo cầu nối hữu hiệu giữa người dân và doanh nghiệp với chính quyền tỉnh Bình Dương, ngày 24/11/2019, Hệ thống đường dây nóng tỉnh Bình Dương 1022 chính thức đi vào hoạt động; trong đó, một trong những lĩnh vực được tiếp nhận, xử lý qua Hệ thống đường dân nóng 1022 là giải đáp thủ tục hành chính, hành vi chậm trễ, gây phiền hà hoặc không thực hiện, thực hiện không đúng quy định của cán bộ, công chức, viên chức trong giải quyết thủ tục hành chính. Những cơ chế, chính sách, thủ tục hành chính không phù hợp với thực tế, không đồng bộ, không thống nhất, không hợp pháp hoặc trái với các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập. Khi người dân, doanh nghiệp muốn làm thủ tục hành chính nào đó mà không biết quy trình nộp hồ sơ, hồ sơ gồm những gì có thể liên hệ đến đường dây nóng 1022 để được giải đáp, hướng dẫn cụ thể. Song song đó, Hệ thống đường dây nóng cũng tiếp nhận các vướng mắc trong quá trình giải quyết thủ tục hành chính của người dân, doanh nghiệp để cơ quan Nhà nước biết được tình trạng xử lý hồ sơ như thế nào, trên cơ sở đó sẽ có chỉ đạo cụ thể giải quyết các vướng mắc. Để bảo đảm cho hệ thống đường dây nóng 1022 ở Bình Dương được thông suốt và phục vụ người dân 24/24 giờ trong 7 ngày/tuần, bộ phận tiếp nhận thông tin được bố trí gồm gần 20 nhân viên chia nhau túc trực 3 ca/ ngày, mỗi ca gồm 6 nhân viên. Cùng với đó, thời gian qua, các sở, ban, ngành đã hỗ trợ bộ phận tiếp nhận thông tin hệ thống đường dây nóng trong khâu đào tạo toàn diện cho nhân viên tiếp nhận trong nhiều tháng trước khi vận hành chính thức hệ thống đường dây nóng,người được chọn tiếp nhận thông tin đường dây nóng cũng hội đủ các điều kiện, tố chất chuyên môn. Từ khi đưa vào hoạt động đến nay, Hệ thống đường dây nóng 1022 đã tiếp nhận được 3.938 yêu cầu, phản ánh, kiến nghị của các cá nhân, tổ chức; trong đó, có 1.055 yêu cầu phản ánh, kiến nghị về thủ tục hành chính cho 47 đầu mối của các sở, ban, ngành, địa phương (số giải đáp thỏa đáng là 760 yêu cầu, đạt tỷ lệ 72%). - Hoạt động bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho doanh nghiệp, người làm công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp: Trong năm 2019, Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương cũng đã phối hợp với Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) tổ chức Hội nghị tập huấn, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng phòng ngừa tranh chấp đầu tư quốc tế hơn 60 đại biểu là đại diện các sở, ban, ngành tỉnh, UBND cấp huyện và doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. Trong khuôn khổ Hội nghị, các báo cáo viên của Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam và Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh đã triển khai các chuyên đề về Pháp luật về đầu tư quốc tế, giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế. Qua hội nghị tập huấn góp phần nâng cao nhận thức, kiến thức, kỹ năng phòng ngừa tranh chấp đầu tư quốc tế giúp cho việc nắm bắt, áp dụng các quy định pháp luật về phòng ngừa tranh chấp đầu tư quốc tế được thống nhất, kịp thời và hiệu quả trong thời gian tới. Trong năm 2020, tại Bình Dương, Bộ Tư pháp đã tổ chức Hội nghị tập huấn "Kiến thức, kỹ năng chuyên sâu về pháp luật quốc tế và giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế" cho công chức, viên chức các cơ quan nhà nước và một số doanh nghiệp ở địa phương các tỉnh phía Nam; tại khóa tập huấn, các báo cáo viên đến từ Vụ Pháp luật quốc tế, Bộ Tư pháp sẽ triển khai một số kiến thức chuyên sâu về cam kết, pháp luật đầu tư, phòng ngừa, giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế trong điều kiện Việt Nam là thành viên các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và cách thức ứng phó dành cho công chức, viên chức các cơ quan nhà nước ở địa phương trong quá trình thực hiện nhiệm vụ để giảm tranh chấp đầu tư quốc tế. 3. Những thuận lợi, khó khăn Với quan điểm, chủ trương nhất quán tạo môi trường đầu tư thông thoáng, hấp dẫn và luôn quan tâm hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho doanh nghiệp, nhà đầu tư đến tỉnh Bình Dương, trong nhiều năm qua Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh và các cấp chính quyền tỉnh Bình Dương rất quan tâm đến hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, nhiều hình thức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp đã được triển khai, thực hiện, mang lại hiệu quả tích cực đối với môi trường đầu tư, kinh doanh của địa phương, mang lại lợi ích cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, ngày càng có nhiều doanh nghiệp nhận thấy ích lợi của việc nắm bắt, tuân thủ các quy định pháp luật nên đã quan tâm đến các chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, qua đó đã góp phần tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước với người quản lý doanh nghiệp. Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp ở Bình Dương trong thời gian qua vẫn còn một số hạn chế, tồn tại: Thứ nhất, khung pháp lý phục vụ công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp chưa đầy đủ, chưa thật sự đáp ứng được sự phát triển mạnh mẽ của doanh nghiệp. Sự biến động, thay đổi liên tục của các văn bản quy phạm pháp luật của Trung ương liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp phần nào gây khó khăn cho các cơ quan, đơn vị, địa phương và doanh nghiệp trong việc nghiên cứu, tiếp cận và hệ thống các văn bản để triển khai thực hiện, hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp chưa được thực hiện một cách đồng bộ và có hệ thống. Thứ hai, đội ngũ công chức, viên chức làm công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp còn ít về số lượng, đa số thực hiện công tác là kiêm nhiệm, ít về kinh nghiệm, chưa thường xuyên được đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu về kiến thức pháp luật và kỹ năng hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, nhiệm vụ tăng, áp lực công việc nhiều, còn có công chức, viên chức nghỉ việc nên chất lượng tuyên truyền, tư vấn hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp chưa đồng đều; chưa rõ đầu mối triển khai thực hiện công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp ở các sở, ngành tỉnh. Thứ ba, kinh phí cho công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp còn hạn chế, trang thiết bị phục vụ công tác tư vấn tại Bộ phận tiếp nhận hồ sơ và Trả kết quả - Trung tâm Hành chính tỉnh chưa đầy đủ. Thứ tư, hoạt động hỗ trợ pháp lý đối với đối tượng doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh đạt hiệu quả chưa cao, chưa thu hút được sự tham gia tích cực của các doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp có quy mô lớn, hầu hết đều sử dụng dịch vụ tư vấn pháp luật chuyên nghiệp hoặc có bộ phận pháp chế hoặc thuê luật sư để cung cấp dịch vụ pháp lý, ít có nhu cầu hỗ trợ pháp lý từ các cơ quan nhà nước. Thứ năm, việc chấp hành pháp luật của các doanh nghiệp vẫn còn nhiều mặt hạn chế, một phần do nhận thức về vai trò, ý nghĩa pháp luật của một số chủ doanh nghiệp, chưa tạo điều kiện cho Báo cáo viên, Tư vấn viên, Tuyên truyền viên vào doanh nghiệp để tư vấn, tuyên truyền, chưa có thói quen sử dụng tư vấn pháp luật để áp dụng, thi hành và phòng, chống rủi ro trong kinh doanh; các doanh nghiệp tham dự hội thảo, hội nghị còn ít, chưa được chú trọng. Doanh nghiệp chưa chú trọng đến việc đăng ký bảo hộ, bản quyền của doanh nghiệp, chỉ đến khi nào quyền lợi của doanh nghiệp bị bên thứ hai xâm phạm hoặc bị bên thứ hai khuyến cáo hành vi vi phạm quyền của người khác thì doanh nghiệp mới tìm hiểu và bảo vệ bằng nhiều cách khác nhau. Thứ sáu, hiện nay, tất cả các thủ tục hành chính liên quan đến người dân và doanh nghiệp đã được công khai, minh bạch; đối với các thủ tục đơn giản,thì người dân, doanh nghiệp có thể dễ dàng tra cứu, thực hiện nên không cần sự tư vấn, hỗ trợ. Đối với những thủ tục phức tạp, thành viên thường trực tại Tổ tư vấn thủ tục hành chính của tỉnh (là viên chức của Trung tâm Trợ giúp pháp lý) sẽ khó có thể tư vấn, hướng dẫn được cho doanh nghiệp mà cần có sự hỗ trợ, phối hợp của các Sở chuyên ngành nên quá trình hỗ trợ, tư vấn sẽ mất nhiều thời gian. * Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại: - Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật được ban hành ngày càng nhiều với số lượng lớn, lại liên tục được sửa đổi, bổ sung nên doanh nghiệp khó nắm bắt. Bên cạnh đó, các văn bản pháp luật vẫn còn tình trạng thiếu cụ thể, chưa rõ ràng, nhiều văn bản thiếu tính khả thi, còn có sự trùng lặp, chồng chéo thậm chí mâu thuẫn nhau; tính ổn định của hệ thống pháp luật chưa cao. - Một số sở, ngành tỉnh chưa chủ động, sáng tạo, tích cực đổi mới trong công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, nội dung, hình thức chưa đa dạng; hầu hết sở, ngành đều triển khai các kế hoạch, giải pháp để hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trong phạm vi lĩnh vực chuyên ngành của mình nhưng chưa có sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa các sở, ngành, địa phương trong tỉnh. Nên hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp chưa được thực hiện một cách đồng bộ và có hệ thống. - Nhu cầu được hỗ trợ pháp lý của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Bình Dương hiện nay là rất lớn; tuy nhiên, nhân lực của Sở Tư pháp và tổ chức pháp chế của các cơ quan chuyên môn nói chung còn thiếu, chưa có nhiều kinh nghiệm và mô hình hay trong hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Đội ngũ cán bộ làm công tác hỗ trợ pháp lý doanh nghiệp ở các sở, ngành phần lớn kiêm nhiệm, chưa được đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ, hạn chế về ngoại ngữ và kiến thức pháp luật quốc tế nên gặp khó khăn khi hỗ trợ cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hỗ trợ nội dung liên quan đến thương mại quốc tế. - Một bộ phận doanh nghiệp chưa nhận thấy được các lợi ích khi tham gia các chương trình hỗ trợ pháp lý cho nên chưa tích cực tham gia; phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa bố trí cán bộ phụ trách công tác pháp chế hoặc chỉ có cán bộ kiêm nhiệm, chưa được đào tạo bài bản, do đó, việc tiếp cận và hiểu các văn bản pháp luật rất khó khăn, hạn chế... Việc chấp hành pháp luật của các doanh nghiệp vẫn còn nhiều mặt hạn chế, một phần do nhận thức về vai trò, ý nghĩa pháp luật của một số chủ doanh nghiệp, chưa có thói quen sử dụng tư vấn pháp luật để áp dụng, thi hành và phòng, chống rủi ro trong kinh doanh. 4. Đề xuất, kiến nghị đẩy mạnh công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp giai đoạn 2021-2025 a) Về thể chế, chính sách: Kiến nghị Trung ương sớm ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung thay thế Nghị định số 55/2011/NĐ-CP và hướng dẫn về biên chế để kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức pháp chế cho phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương nhằm tạo sự thống nhất, đảm bảo cơ sở pháp lý để củng cố, kiện toàn tổ chức, hoạt động, cũng như đảm bảo chế độ làm việc, chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ pháp chế tại các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, qua đó phát huy trách nhiệm năng lực của đội ngũ này trong thực hiện hiệu quả nhiệm vụ làm đầu mối triển khai công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tại cơ quan, đơn vị. b) Về đào tạo, bồi dưỡng: Kiến nghị các Bộ, ngành tiếp tục tổ chức triển khai các khóa tập huấn về kỹ năng hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa cho địa phương. Trong đó, trang bị kiến thức pháp luật và kỹ năng, phương pháp để tổ chức triển khai các nội dung hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và hỗ trợ pháp lý về kinh doanh thương mại quốc tế, nhằm nâng cao kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ tư vấn, hỗ trợ, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế; xây dựng cẩm nang pháp luật cho doanh nghiệp, cẩm nang kỹ năng và nghiệp vụ cho cán bộ pháp chế. c) Về bộ máy, nhân sự: Thành lập Tổ chuyên trách hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp tại địa phương, có bù đắp chi phí, tạo tính chuyên nghiệp, chất lượng tư vấn, hỗ trợ pháp lý. Qua đó, đào tạo đội ngũ cán bộ làm việc tại Tổ chuyên trách này có kiến thức pháp lý và kỹ năng chuyên nghiệp để thực hiện công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. d) Về kinh phí: Bố trí kinh phí, trang bị đầy đủ các trang thiết bị, vật tư văn phòng cần thiết cho hoạt động hỗ trợ pháp lý doanh nghiệp, nhất là hoạt động tư vấn của Tổ tư vấn thủ tục hành chính và hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp tại Bộ phận tiếp nhận hồ sơ và Trả kết quả - Trung tâm Hành chính tỉnh. e) Các vấn đề khác: - Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng bá về hoạt động của Tổ tư vấn đến các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân, nhằm thúc đẩy doanh nghiệp khởi nghiệp. - Tăng cường hoạt động truyền thông để nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và cộng đồng doanh nghiệp về công tác hỗ trợ pháp lý doanh nghiệp. - Hỗ trợ tài liệu, chuyên gia về các lĩnh vực pháp luật có liên quan trực tiếp đến doanh nghiệp…, nhất là thông tin pháp luật bằng tiếng nước ngoài và tiếng Việt (song ngữ) để giúp địa phương triển khai có hiệu quả hoạt động hỗ trợ pháp lý doanh nghiệp./. | False | Trần Thị Kim Yến | | Tỉnh Bình Dương đề xuất hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2021-2026 | Thông tin | Tin | Tỉnh Bình Dương đề xuất hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2021-2026 | /xaydungkiemtravbqppl/PublishingImages/2020-06/12_Key_29062020145955.PNG | | 6/29/2020 3:00 PM | No | Đã ban hành | | Thực hiện Mục 3 Công văn số 507/BTP-PLDSKT ngày 18 tháng 02 năm 2020 của Bộ Tư pháp về việc đẩy mạnh việc triển khai công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp và Công văn số 1649/BTP-PLDSKT ngày 07 tháng 5 năm 2020 của Bộ Tư pháp về việc đôn đốc thực hiện Công văn số 507/BTP-PLDSKT ngày 18 tháng 02 năm 2020 của Bộ Tư pháp, Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương ban hành Công văn số 2754/UBND-NC ngày 12 tháng 6 năm 2020 về việc đề xuất hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2021-2026, như sau: Thứ nhất, tăng cường công tác tập huấn nghiệp vụ hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp cho cán bộ thực hiện công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Hỗ trợ báo cáo viên, hỗ trợ công tác tổ chức Hội nghị, tọa đàm, trao đổi kinh nghiệm, các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ, kỹ năng cho các cơ quan, tổ chức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhằm nâng cao năng lực cho cơ quan, tổ chức làm công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp tại một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các tổ chức đại diện cho doanh nghiệp. Thứ hai, thường xuyên rà soát hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, nhất là hệ thống văn bản liên quan đến doanh nghiệp nhằm kịp thời đề xuất sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ các quy định chồng chéo, không phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hoạt động của doanh nghiệp, nhất là thực hiện tốt công tác cải cách hành chính nhằm giảm bớt thời gian, thủ tục hành chính cho doanh nghiệp, nhà đầu tư./. CV_2754_UBND_TINH_BD.pdf | False | Lê Thị Phương | | Đã có Danh sách cá nhân, tổ chức tham gia mạng lưới tư vấn viên pháp luật (Đợt 1) của Bộ Tư pháp | Thông tin | Tin | Đã có Danh sách cá nhân, tổ chức tham gia mạng lưới tư vấn viên pháp luật (Đợt 1) của Bộ Tư pháp | /xaydungkiemtravbqppl/PublishingImages/2020-06/1_Key_15062020153746.PNG | | 6/15/2020 4:00 PM | No | Đã ban hành | | Theo quy định tại Khoản 3 Điều 3 Nghị định 55/2019/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24 tháng 6 năm 2019 (có hiệu lực từ 16 thàng 8 năm 2019) về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa quy định: "Mạng lưới tư vấn viên pháp luật là một bộ phận của mạng lưới tư vấn viên theo Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, gồm luật sư, tổ chức hành nghề luật sư, tư vấn viên pháp luật, trung tâm tư vấn pháp luật đủ điều kiện hành nghề tư vấn pháp luật theo quy định của pháp luật, tự nguyện thông báo tham gia và được bộ, cơ quan ngang bộ công bố công khai (sau đây gọi là tư vấn viên pháp luật) để hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa." Căn cứ Nghị định trên, ngày 01/6/2020, Bộ Trưởng Bộ Tư pháp đã có Quyết định số 1322/QĐ-BTP phê duyệt danh sách cá nhân, tổ chức tham gia mạng lưới tư vấn viên pháp luật (đợt 1) của Bộ Tư pháp. Theo đó, mạng lưới tư vấn viên pháp luật của Bộ Tư pháp thực hiện theo quy định của Nghị định 55/2019/NĐ-CP ngày 24 tháng 6 năm 2019 của Chính phủ về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa quy định, Nghị định số 39/2018/NĐ-CP ngày 11 tháng 3 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Có file đính kèm: qd1322signed.pdf phulucqd1322signed.pdf
| False | Lê Thị Phương | | Thành lập kênh youtube đăng tải các hoạt động của Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành dành cho doanh nghiệp | Thông tin | Tin | Thành lập kênh youtube đăng tải các hoạt động của Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành dành cho doanh nghiệp | /Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg | | 6/15/2020 10:00 AM | No | Đã ban hành | | Kênh youtube thuộc Chương trình Hỗ trợ pháp lý liên ngành dành cho doanh nghiệp giai đoạn 2015-2020, Bộ Tư pháp. Đăng tải các clip bài giảng điện tử ngắn kết hợp giữa lý thuyết với kỹ năng nghiệp vụ thực tế, chính xác, dễ hiểu và gắn với thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp. Thực hiện các bài giảng nhằm cung cấp đầy đủ, có hệ thống những thông tin pháp luật cơ bản, cần thiết nhất trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đưa ra các kỹ năng nghiệp vụ áp dụng pháp luật cần thiết trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. https://www.youtube.com/channel/UC3yVZPAtpt35Jen30Ql5hyg/videos

Nguồn: Bộ Tư pháp | False | Lê Thị Phương | | Vụ Pháp luật dân sự - kinh tế, Bộ Tư pháp tổ chức cuộc họp với Tổ Soạn thảo xây dựng Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành dành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2021 - 2026 | Thông tin | Tin | Vụ Pháp luật dân sự - kinh tế, Bộ Tư pháp tổ chức cuộc họp với Tổ Soạn thảo xây dựng Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành dành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2021 - 2026 | /Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg | | 6/15/2020 10:00 AM | No | Đã ban hành | | Ngày 06/5/2020, Vụ Pháp luật dân sự - kinh tế, Bộ Tư pháp cùng Tỏ Soạn thảo theo Quyết định số 763/QĐ-BTP ngày 06/4/2020 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã tổ chức làm việc để Chuẩn bị xây dựng dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành dành cho doanh nghiệp giai đoạn 2021 - 2026.
Đồng chí Nguyễn Thanh Tú - Vụ trưởng Vụ Pháp luật dân sự - kinh tế, Phó Trưởng ban Ban Quản lý Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành dành cho doanh nghiệp giai đoạn 2015 - 2020 đã chủ trì cuộc họp và tiếp nhận các ý kiến, đề xuất đóng góp của các thành viên Tổ Soạn thảo, là những người đại diện cho các cơ quan, tổ chức trực tiếp thực hiện, đóng góp cho công cuộc Hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.
 Các thành viên đều thống nhất chủ trương xây dựng một Chương trình Hỗ trợ pháp lý liên ngành dành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2021 - 2026 tiếp tục tiếp nối các truyền thống tốt đẹp của các Chương trình hỗ trợ pháp lý tiền nhiệm nhưng cũng phải có những thay đổi, đổi mới hơn nữa để phù hợp một cách đúng, chính xác, sát với thực tiễn nhu cầu của doanh nghiệp. Đồng thời áp dụng triệt để các biện pháp công nghệ, kỹ thuật trong kỷ nguyên Cách mạng công nghiệp 4.0.
Nguồn: Bộ Tư pháp | False | Lê Thị Phương | | Thành lập Tổ soạn thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2021 - 2026 | Thông tin | Tin | Thành lập Tổ soạn thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2021 - 2026 | /Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg | | 6/15/2020 10:00 AM | No | Đã ban hành | | Thực hiện Nghị định số 55/2019/NĐ-CP ngày 24 tháng 6 năm 2019 của Chính phủ về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, Công văn số 98/VPCP-TH ngày 20 tháng 01 năm 2020 của Văn phòng chính phủ thông báo Chương trình công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ năm 2020, Bộ tư pháp ban hành Quyết định về việc thành tổ soạn thảo theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2021 - 2026. 


| False | Lê Thị Phương | | Nhiều hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong năm 2020 trên địa bàn tỉnh Bình Dương | Thông tin | Tin | Nhiều hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong năm 2020 trên địa bàn tỉnh Bình Dương | /xaydungkiemtravbqppl/PublishingImages/2020-06/12_Key_05062020094134.PNG | | 6/5/2020 10:00 AM | No | Đã ban hành | | Ngày 31/3/2020, Ủy ban nhân dân tỉnh vừa ban hành Kế hoạch số 1485/KH-UBND Hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2020 trên địa bàn tỉnh Bình Dương, theo Kế hoạch, nhiều hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong năm 2020 tiếp tục được thực hiện, cụ thể: - Hoạt động cung cấp thông tin pháp luật: Doanh nghiệp có nhu cầu tìm hiểu, nắm bắt các chính sách, quy phạm pháp luật của tỉnh thì liên hệ cơ quan quản lý lĩnh vực, chuyên ngành để được cung cấp, giải đáp bằng văn bản, lời nói, qua trang thông tin điện tử của sở, ngành tỉnh, hòm thư hỏi đáp và bằng các hình thức khác theo quy định. - Cảnh báo rủi ro pháp lý và chính sách của ngành, lĩnh vực, địa phương liên quan đến doanh nghiệp nhỏ và vừa (nếu có): Khi các chính sách, chủ trương hoặc văn bản quy phạm pháp luật của tỉnh ban hành có chứa nguy cơ rủi ro pháp lý khi doanh nghiệp thực hiện hoặc không thực hiện theo văn bản đó thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trong phạm vi quản lý của ngành mình phải có khuyến cáo, cảnh báo rủi ro pháp lý đăng trên trang thông tin của ngành hoặc bằng hình thức khác phù hợp. - Hoạt động bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho doanh nghiệp nhỏ và vừa: Khi có sự thay đổi về chính sách pháp luật hoặc khi có nhu cầu, cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn để bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho doanh nghiệp, cán bộ pháp chế của doanh nghiệp mới thành lập và các đối tượng khác có liên quan bằng các hình thức phù hợp với tình hình thực tế. - Hoạt động tư vấn pháp luật: Thực hiện các hoạt động đối thoại, giải quyết các vướng mắc pháp lý cho doanh nghiệp và các hoạt động tư vấn pháp luật khác phù hợp với các quy định của pháp luật trên cơ sở nhu cầu của doanh nghiệp nhỏ và vừa. | False | Lê Thị Phương | | Ưu tiên hỗ trợ pháp lý cho Doanh nghiệp nhỏ và vừa do phụ nữ làm chủ | Thông tin; Văn bản QPPL | Tin | Ưu tiên hỗ trợ pháp lý cho Doanh nghiệp nhỏ và vừa do phụ nữ làm chủ | /Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg | | 6/5/2020 10:00 AM | No | Đã ban hành | | Chính phủ ban hành Nghị định 55/2019/NĐ-CP ngày 24 tháng 6 năm 2019 về hỗ trợ pháp lý cho Doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nghị định này quy định chi tiết các hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa; trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương cấp tỉnh, cơ quan, tổ chức khác và cá nhân có liên quan trong công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Theo đó, khi thực hiện hỗ trợ pháp lý cho doanh nhiệp nhỏ và vừa, cơ quan, tổ chức căn cứ vào nguồn lực, chương trình hỗ trợ để quyết định hỗ trợ theo thứ tự ưu tiên như sau: - Doanh nghiệp nhỏ và vừa do phụ nữ làm chủ, doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ hơn nộp hồ sơ đáp ứng đủ điều kiện được hỗ trợ trước; - Doanh nghiệp nhỏ và vừa sử dụng 30% tổng số lao động trở lên là người khuyết tật theo quy định của Luật Người khuyết tật; - Doanh nghiệp nhỏ và vừa nộp hồ sơ đáp ứng đủ điều kiện hỗ trợ trước được hỗ trợ trước. Nhà nước khuyến khích và có chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện cho cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân tham gia thực hiện hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa./. | False | Lê Thị Phương | | Kết quả hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp thông qua mạng lưới tư vấn viên | Thông tin | Tin | Kết quả hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp thông qua mạng lưới tư vấn viên | /Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg | | 6/2/2020 3:00 PM | No | Đã ban hành | | Trong nền kinh tế thị trường, muốn hoạt động sản xuất, kinh doanh an toàn, hiệu quả và phát triển bền vững, doanh nghiệp cần phải hiểu biết, tuân thủ và áp dụng đúng đắn các quy định pháp luật. Thực tế thời gian qua cho thấy, dù doanh nghiệp lớn, vừa, nhỏ hay siêu nhỏ thì cũng đều phải đối mặt với các vấn đề rủi ro về pháp lý trong quản lý, điều hành… và thực hiện các giao dịch kinh doanh với đối tác, khách hàng. Những rủi ro này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân cơ bản là trình độ nhận thức và hiểu biết pháp luật của doanh nghiệp còn hạn chế. Trong tổng số hơn 714.000 doanh nghiệp hiện nay trên cả nước thì doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa chiếm tới hơn 97%, trong đó rất nhiều doanh nghiệp phát triển đi lên từ các hộ kinh doanh, ngành nghề truyền thống còn gặp nhiều khó khắn về tài chính trong việc tiếp cận và sử dụng các dịch vụ pháp lý để giải quyết những vướng mắc gặp phải trong quá trình kinh doanh. Trước thực trạng đó, nhằm mục đích giúp doanh nghiệp nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật, tạo thói quen tuân thủ và sử dụng pháp luật trong hoạt động sản xuất, kinh doanh; đặc biệt nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp còn gặp khó khăn trong việc tiếp cận sử dụng các dịch vụ tư vấn pháp luật; ngày 29/10/2013, Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 2582/QĐ-BQL về việc phê duyệt Đề án thiết lập mạng lưới tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại các địa phương có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn. Đề án ban hành nhằm mục đích tổ chức triển khai có hiệu quả Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành dành cho doanh nghiệp theo Quyết định số 585/QĐ-TTg ngày 05/5/2010 và Quyết định số 2139/QĐ-TTg ngày 28/11/2014 của Thủ tướng Chính phủ. Kết quả hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp thông qua mạng lưới tư vấn viên. Quá trình triển khai các hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trong thời gian qua nói chung và hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp thông qua mạng lưới tư vấn viên đã đạt được những kết quả rất tích cực và lan tỏa sâu rộng tới cộng đồng doanh nghiệp. Tính đến thời điểm hiện tại, hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp thông qua mạng lưới tư vấn viên do Bộ Tư pháp chủ trì tổ chức triển khai đã được thiết lập, duy trì tại hơn 30 tỉnh, thành trên cả nước. Việc hình thành, thiết lập và duy trì mạng lưới được thực hiện thông qua nhiều hình thức: tổ chức tọa đàm thiết lập, duy trì mạng lưới tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp và tọa đàm trao đổi kinh nghiệm giữa cộng tác viên và mạng lưới và doanh nghiệp; tổ chức tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp qua phiếu tư vấn, giải đáp pháp luật trên truyền hình theo từng vụ việc cụ thể. Nội dung tư vấn, giải đáp rất phong phú, đa dạng bao gồm tất cả các vấn đề pháp lý liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp như: quản trị doanh nghiệp; đầu tư, hợp đồng, thuế, lao động, bảo hiểm xã hội, sở hữu trí tuệ, đất đai, môi trường… Các hoạt động này đã đem lại những tác động tích cực tới nhận thức của lãnh đạo doanh nghiệp về tầm quan trọng của việc hiểu biết, áp dụng pháp luật trong hoạt động sản xuất kinh doanh; giúp cho các doanh nghiệp còn khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ pháp lý được tư vấn, giải đáp miễn phí các vướng mắc pháp luật; qua đó góp phần quan trọng trong việc phòng ngừa rủi ro pháp lý trong kinh doanh và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Công tác triển khai đã nhận được sự hưởng ứng, tham gia tích cực của các tổ chức đại diện doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, các đoàn luật sư, tổ chức hành nghề luật sư. Nhiều tổ chức hành nghề luật sư mong muốn cộng tác chuyên gia sâu và thường xuyên qua các năm. Hầu hết các chuyên gia là các cộng tác viên tư vấn của mạng lưới là những người rất sát với thực tế công tác hỗ trợ tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp, đã tham gia trong tổ xây dựng các chính sách pháp luật về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, đã tham gia hoặc đang công tác kiêm nhiệm làm chuyên gia cho một số hiệp hội về công tác pháp chế. Với những hình thức và nội dung hỗ trợ đa dạng của Chương trình đã góp phần định hướng, nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật, giúp doanh nghiệp hoạt động và phát triển dựa trên một nền tảng pháp lý ổn định, chắc chắn, bền vững, lâu dài. Với sự hỗ trợ từ hệ thống mạng lưới tư vấn viên, doanh nghiệp yên tâm hơn về tính pháp lý trong mỗi hoạt động của mình, hạn chế được tình trạng vi phạm pháp luật do thiếu hiểu biết... Có thể khẳng định rằng, với chương trình hỗ trợ pháp lý này, mối quan hệ giữa cơ quan nhà nước và doanh nghiệp đã được cải thiện đáng kể. Một số khó khăn, hạn chế Doanh nghiệp còn thiếu hiểu biết pháp luật, chưa nhận thức đầy đủ vai trò của pháp luật trong kinh doanh, chưa có biện pháp phòng ngừa các rủi ro pháp lý. Khi có vấn đề pháp lý phát sinh, tâm lý đầu tiên là tìm đến các "quan hệ thân quen" để giải quyết mà chưa có thói quen sử dụng dịch vụ pháp lý. Kinh phí còn rất hạn hẹp khiến cho việc triển khai hoạt động hỗ trợ pháp lý thông qua mạng lưới tư vấn viên cho doanh nghiệp gặp khó khăn. Thù lao cho cộng tác viên tham gia mạng lưới còn thấp nên chưa hấp dẫn được những chuyên gia giỏi để tham gia vào hoạt động, đặc biệt có những vụ việc vướng mắc của doanh nghiệp đòi hỏi phải mất nhiều thời gian, công sức nghiên cứu để trả lời doanh nghiệp thì chi phí thù lao trả cộng tác viên chưa tương xứng. Sự tham gia của một số địa phương đối với công tác này còn hạn chế, nhiều sở tư pháp địa phương mới chỉ tập trung hoạt động bồi dưỡng, tọa đàm pháp luật doanh nghiệp, chưa quan tâm đến hoạt động thiết lập, duy trì mạng lưới tư vấn pháp luật, cách thức triển khai mạng lưới tư vấn pháp luật./. Nguồn: Tạp chí Luật sư Việt Nam số 11 (tháng 11/2019) – Chuyên trang về hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa | False | Lê Thị Phương | | Nâng cao hiệu quả hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp thông qua mạng lưới tư vấn viên | Thông tin | Tin | Nâng cao hiệu quả hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp thông qua mạng lưới tư vấn viên | /Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg | | 6/2/2020 3:00 PM | No | Đã ban hành | | Thứ nhất: Hình thành và phát triển mạng lưới tư vấn viên chuyên nghiệp trong lĩnh vực pháp lý Thời gian qua, cơ chế cho hoạt động thiết lập, duy trì mạng lưới tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp được dựa trên căn cứ pháp lý là Quyết định 585/QĐ-TTg. Tuy nhiên, tính đến thời điểm hiện tại thì các quy định pháp lý để tạo cơ sở hình thành và phát triển mạng lưới tư vấn viên nói chung và mạng lưới tư vấn viên pháp lý nói riêng đã khá đầy đủ. Vấn đề này được quy định cụ thể tại khoản 2 Điều 14 Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, cụ thể: "Các bộ, cơ quan ngang bộ, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, xây dựng mạng lưới tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ tư vấn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (sau đây gọi là mạng lưới tư vấn viên). Doanh nghiệp nhỏ và vừa được miễn, giảm chi phí tư vấn khi sử dụng dịch vụ tư vấn thuộc mạng lưới tư vấn viên". Nội dung này tiếp tục được quy định chi tiết tại Điều 13 Nghị định 39/2018/NĐ-CP, theo đó "Doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận mạng lưới tư vấn viên trên Cổng thông tin quốc gia hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, trang thông tin điện tử của các bộ, cơ quan ngang bộ để lựa chọn tư vấn viên hoặc tổ chức tư vấn và dịch vụ tư vấn phù hợp nhu cầu của doanh nghiệp". Trên cơ sở quy định nêu trên, ngày 29/3/2019 Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ban hành Thông tư số 06/2019/TTBKHĐT hướng dẫn việc tổ chức và hoạt động của mạng lưới tư vấn viên; hỗ trợ tư vấn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa thông qua mạng lưới tư vấn. Các văn bản nêu trên đã quy định các tiêu chí cụ thể để hình thành mạng lưới tư vấn viên, quy trình, điều kiện để doanh nghiệp được hỗ trợ tư vấn thông qua mạng lưới tư vấn. Đối với hoạt động hỗ trợ pháp lý thông qua mạng lưới tư vấn viên còn được quy định cụ thể tại Điều 9 Nghị định số 55/2019/NĐ-CP về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp (thay thế Nghị định số 66/2008/NĐ-CP), cụ thể: "1. Doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận mạng lưới tư vấn viên pháp luật theo lĩnh vực quản lý của bộ, cơ quan ngang bộ thông qua danh sách tư vấn viên pháp luật được đăng tải trên cổng thông tin của bộ, cơ quan ngang bộ đó. 2. Sau khi thỏa thuận dịch vụ tư vấn pháp luật với tư vấn viên pháp luật phù hợp thuộc mạng lưới tư vấn viên pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều này, doanh nghiệp nhỏ và vừa gửi hồ sơ trực tiếp hoặc qua dịch vụ bưu chính hoặc bằng phương thức điện tử đến bộ, cơ quan ngang bộ đề nghị hỗ trợ chi phí tư vấn pháp luật về vụ việc, vướng mắc". Nghị định số 55/2019/NĐ-CP cũng quy định cụ thể điều kiện, thời gian, thủ tục, hồ sơ để được tư vấn pháp luật và mức chi phí hỗ trợ đối với từng doanh nghiệp. Như vậy, tính đến thời điểm hiện tại, hành lang pháp lý để hình thành và phát triển mạng lưới tư vấn viên pháp luật đã tương đối đồng bộ và đầy đủ. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp thông qua mạng lưới tư vấn viên thì trong thời gian tới, các bộ, ngành Trung ương cần sớm xây dựng và công bố danh sách các tư vấn thuộc bộ, ngành quản lý. Để có thể làm được điều này cần phải đưa ra các điều kiện, tiêu chuẩn cụ thể rõ ràng và có cơ chế thu hút được đông đảo các tổ chức và cá nhân tham gia mạng lưới tư vấn viên, đặc biệt là những tổ chức hỗ trợ, tư vấn pháp lý chuyên nghiệp và các tư vấn viên (luật sư, luật gia, chuyên gia pháp lý) có kinh nghiệm thực tiễn và trình độ chuyên môn sâu trong lĩnh vực tư vấn. Các bộ, ngành Trung ương và các cơ quan, ban ngành ở địa phương cần sớm công bố danh sách các tổ chức, cá nhân thuộc mạng lưới tư vấn và chủ động truyền thông rộng rãi tới cộng đồng doanh nghiệp để doanh nghiệp biết và tiếp cận sử dụng dịch vụ hỗ trợ tư vấn thông qua hệ thống mạng lưới này. Thực tế đã chứng minh những nhân tố và điều kiện ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của bất kỳ mạng lưới nào cũng như những giá trị tích cực của mạng lưới mang lại, đều bắt nguồn từ những yếu tố cơ bản sau đây: mạng lưới có mục tiêu, quy chế rõ ràng; phải mang tính thực tế, có tác dụng tích cực cho đối tượng thụ hưởng. Mạng lưới phải ổn định về tổ chức, có sự phân công, phân quyền, chia sẻ bổn phận một cách hợp lý; có cơ chế pháp lý để hoạt động ổn định. Nguồn lực hoạt động của mạng lưới phải đảm bảo mặc dù lợi ích vật chất không phải là động lực chính, tuy nhiên, việc tham gia mạng lưới cũng phải đảm bảo mang lại lợi ích vật chất, tinh thần cho các cộng tác viên tham gia, đảm bảo duy trì ổn định của mạng lưới. Đồng thời mạng lưới phải có cơ chế giám sát, công khai minh bạch. Đây là những nhân tố cơ bản để hình thành, duy trì và phát triển của mạng lưới tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp một cách chuyên nghiệp. Thực tế mô hình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp đã và đang rất phát triển và hoạt động rất có hiệu quả tại các quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc thông qua việc liên kết giữa Bộ Tư pháp với đội ngũ luật sư, luật gia, các hiệp hội doanh nghiệp tại các địa phương. Cần tham khảo kinh nghiệm mô hình các nước này để tổ chức xây dựng và vận hành mạng lưới tư vấn viên nói chung và tư vấn viên pháp luật nói riêng. Thứ hai: Tăng cường công tác phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trong quá trình vận hành mạng lưới tư vấn Việc triển khai hoạt động mang lưới tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp là một hoạt động rất khó khăn, vì thực tế thói quen sử dụng dịch vụ tư vấn của doanh nghiệp chưa nhiều, nhất là các doanh nghiệp vùng sâu, vùng xa cơ hội tiếp cận dịch vụ pháp lý còn ít hơn nhiều so với các doanh nghiệp ở thành phố lớn. Thực tế, có nhiều vấn đề pháp lý phức tạp mang tính chất liên ngành, đòi hỏi các ngành phải cùng nhau phối hợp giải quyết, vì vậy trong quá trình vận hàng mạng lưới tư vấn nói chung và tư vấn pháp lý nói riêng cần có sự tăng cường phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, các hiệp hội, các tổ chức hành nghề luật sư từ trung ương xuống địa phương trong công tác hỗ trợ tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp thông qua mạng lới tư vấn viên. Thứ ba: Tăng cường công tác bồi dưỡng kỹ năng và chuyên môn cho mạng lới tư vấn viên Hiện nay các tổ chức tư vấn pháp lý và các cộng tác viên tư vấn giỏi tập trung chủ yếu ở các tỉnh, thành phố lớn, đội ngũ cộng tác viên tư vấn ở các địa phương, đặc biệt là các địa phương có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn còn ít về số lượng và hạn chế hơn về chuyên môn, vì vậy trong thời gian tới, cần tiếp tục có cơ chế để tổ chức thường xuyên các lớp bồi dưỡng chuyên sâu, các buổi tọa đàm trao đổi kinh nghiệm giữa các các cộng tác viên trong quá trình vận hành mạng lưới tư vấn, giúp các cộng tác viên nâng cao kỹ năng và kiến thức pháp lý trong quá trình hỗ trợ, tư vấn cho doanh nghiệp. Thứ tư: Tổ chức các buổi tư vấn, tọa đàm theo chuyên pháp lý đề giữa mạng lưới tư vấn viên pháp luật và doanh nghiệp Trong những năm gần đây, việc tổ chức đối thoại giữa cơ quan nhà nước và doanh nghiệp đã được quan tâm tổ chức thường xuyên hàng năm, có những tỉnh còn quan tâm tổ chức đối thoại định kỳ hàng quý giữa các cơ quan ban ngành và doanh nghiệp. Thông qua các buổi đối thoại này, đã có không ít doanh nghiệp giải tỏa được các bức xúc, vướng mắc pháp lý trong hoạt động kinh doanh. Vì vậy, thời gian tới, sau khi danh sách mạng lưới tư vấn được công bố trên website các bộ ngành; thiết nghĩ hàng năm các cơ quan nhà nước cùng cần phải hỗ trợ tổ chức các buổi tư vấn, tọa đàm chuyên đề pháp lý giữa một bên là các tổ chức, cá nhân thuộc mạng lưới tư vấn và một bên là doanh nghiệp có nhu cầu tư vấn. Nhà nước đóng vai trò như là trung gian để kết nối hệ thống mạng lưới tư vấn viên tới cộng đồng doanh nghiệp. Thông qua buổi tư vấn, tọa đàm đối thoại trực tiếp giữa các bên, một mặt sẽ giúp doanh nghiệp được trực tiếp tư vấn, giải đáp các vướng mắc pháp lý, mặt khác sẽ giúp ngày càng nhiều doanh nghiệp biết đến và sử dụng nhiều hơn các dịch vụ tư vấn pháp lý từ hệ thống mạng lưới tư vấn viên, qua đó sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của mạng lưới tư vấn viên pháp luật. Thứ năm: Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động hỗ trợ của mạng lưới tư vấn pháp luật Trong giai đoạn hiện nay, việc ứng dụng công nghệ thông tin thông qua việc kết nối internet, xây dựng các phần mềm ứng dụng để tập huấn, trao đổi, chia sẻ giữa cộng tác viên với cộng đồng doanh nghiệp là vô cùng qua trọng. Điều đó sẽ làm gia tăng khả năng tác động đến cộng đồng doanh nghiệp, đồng thời giảm thiểu chi phí cho các hoạt động tư vấn, hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Vì vậy, trong việc triển khai duy trì mạng lưới tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp thời gian tới, cần đưa các ứng dụng công nghệ thông tin vào trong các thiết kế của chương trình hỗ trợ pháp lý. Kết luận: Nhu cầu hỗ trợ pháp lý thì nhiều, đối tượng có nhu cầu hỗ trợ pháp lý đa dạng, mà nguồn lực Nhà nước thì có hạn. Hơn nữa, việc tổ chức các hoạt động hỗ trợ pháp lý mang tính truyền thống như hội thảo, tọa đàm, tập huấn về pháp luật kinh doanh đã có nhiều thay đổi thông qua việc ứng dụng các kỹ thuật truyền thông như phát thanh, truyền hình. Vì vậy, việc tổ chức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp theo mô hình mạng lưới tư vấn viên sẽ đem nhiều hiệu quả, tác động trực tiếp./. Nguồn: Tạp chí Luật sư Việt Nam số 11 (tháng 11/2019) – Chuyên trang về hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa | False | Lê Thị Phương | | Tổng quan về chế định hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp | Thông tin | Tin | Tổng quan về chế định hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp | /Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg | | 6/1/2020 3:00 PM | No | Đã ban hành | | Nghiên cứu văn bản của Nhà nước về hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa từ giai đoạn trước năm 2017, chúng ta thấy, trong những năm qua, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, trong đó có Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV); Nghị quyết số 22/NQ-CP ngày 05/5/2010 về việc triển khai thực hiện Nghị định số 56/2009/NĐ-CP nhằm triển khai thực hiện tích cực, đồng bộ các chính sách trợ giúp phát triển và phát huy mọi khả năng và nguồn lực đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNVV. Ngày 07/9/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1231/QĐ-TTg về phê duyệt Kế hoạch phát triển DNNVV giai đoạn 2011- 2015, xác định quan điểm, mục tiêu, giải pháp hỗ trợ DNNVV: mục tiêu tổng quát của kế hoạch là đẩy nhanh tốc độ phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh của DNNVV, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi và lành mạnh để các DNNVV đóng góp ngày càng cao vào phát triển kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và hội nhập kinh tế quốc tế. Để thực hiện mục tiêu tổng quát đó, Chính phủ đã đề ra 8 nhóm giải pháp thực hiện kế hoạch, gồm: 1) hoàn thiện khung pháp lý về gia nhập, hoạt động và rút lui khỏi thị trường của doanh nghiệp; 2) hỗ trợ tiếp cận tài chính, tín dụng và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho DNNVV; 3) hỗ trợ đổi mới công nghệ và áp dụng công nghệ mới trong các DNNVV; 4) phát triển nguồn nhân lực cho các DNNVV, tập trung vào nâng cao năng lực quản trị cho các DNNVV; 5) đẩy mạnh hình thành các cụm liên kết, cụm ngành công nghiệp, tăng cường tiếp cận đất đai cho các DNNVV; 6) cung cấp thông tin hỗ trợ DNNVV và xúc tiến mở rộng thị trường cho DNNVV; 7) xây dựng hệ thống tổ chức trợ giúp phát triển DNNVV; 8) quản lý thực hiện kế hoạch phát triển DNNVV. Mặc dù các giải pháp hỗ trợ DNNVV giai đoạn 2011-2015, Chính phủ không quy định riêng giải pháp hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, Chính phủ đã ban hành một nghị định riêng về công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Theo đó, Nghị định số 66/2008/NĐ-CP ngày 28/5/2008 của Chính phủ về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp được ban hành, Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành dành cho doanh nghiệp được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kèm theo Quyết định số 585/QĐ-TTg ngày 05/5/2010 (giai đoạn 2010-2014) và Quyết định số 2139/QĐ-TTg ngày 28/11/2014 (giai đoạn 2015-2020). Những văn bản đó đã thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đối với vấn đề hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, để thực hiện mục tiêu nâng cao nhận thức pháp luật của doanh nghiệp, từng bước hình thành thói quen tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp. Qua 11 năm thi hành Nghị định số 66/2008/NĐ-CP về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp cho thấy, công tác hỗ trợ bước đầu góp phần nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật và sử dụng tư vấn pháp luật của doanh nghiệp. Đã tạo nên cách hiểu thống nhất trong cơ quan hành pháp từ trung ương đến địa phương về vị trí, vai trò của hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Nhiều bộ ngành, địa phương đã chủ động xây dựng kế hoạch, bố trí nguồn lực tài chính, tổ chức, cán bộ cho công tác hỗ trợ pháp lý doanh nghiệp, gắn việc hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp với cải thiện môi trường đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, cải thiện chỉ số chi phí tuân thủ pháp luật cho doanh nghiệp. Từ những tác động và hiệu quả của Nghị định số 66/2008/NĐ-CP và Chương trình 585, các cơ quan chủ trì soạn thảo và thẩm định Luật Hỗ trợ DNNVV nhận thấy, cần thiết phải đưa chế định hỗ trợ pháp lý cho DNNVV vào trong Luật, để tạo hành lang pháp lý cao hơn cho hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Ngày 12/6/2017, Quốc hội đã thông qua Luật Hỗ trợ DNNVV, trong đó tại khoản 3 Điều 14 Luật này quy định: "Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan, tổ chức, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, thực hiện các hoạt động sau đây để hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa: a) Xây dựng, quản lý, duy trì, cập nhật, khai thác và sử dụng cơ sở dữ liệu về pháp luật; b) Xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình hỗ trợ pháp lý để cung cấp thông tin, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, tư vấn pháp luật". Cho đến nay, các chính sách hỗ trợ DNNVV đã được Chính phủ hướng dẫn đầy đủ, cụ thể tại nghị định về hỗ trợ tín dụng, hỗ trợ đổi mới sáng tạo, riêng vấn đề hỗ trợ pháp lý cho DNNVV được quy định tại Nghị định số 39/2018/NĐ-CP hướng dẫn Luật Hỗ trợ DNNVV và Nghị định số 55/2019/NĐ-CP về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Có thể nói, hành lang pháp lý để thực hiện hỗ trợ pháp lý cho DNNVV đã được ban hành đầy đủ từ góc độ luật, nghị định; tới đây Bộ Tư pháp và các bộ, ngành có liên quan sẽ tiếp tục hướng dẫn và chỉ đạo việc triển khai tại các bộ ngành, địa phương và các tổ chức đai diện doanh nghiệp./. Nguồn: Tạp chí Luật sư Việt Nam số 11 (tháng 11/2019) – Chuyên trang về hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa | False | Lê Thị Phương | | Hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa từ pháp luật đến nhu cầu thực tế | Thông tin | Tin | Hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa từ pháp luật đến nhu cầu thực tế | /Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg | | 6/1/2020 3:00 PM | No | Đã ban hành | | Trong thời gian gần đây, Chính phủ đã nỗ lực thực hiện những giải pháp để thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp hướng tới đạt mục tiêu năm 2020 có 1 triệu doanh nghiệp, năm 2025 có 1,5 triệu doanh nghiệp và năm 2030 có 2 triệu doanh nghiệp hoạt động. Theo Nghị quyết số 10- NQ/TW ngày 03/6/2017 của Hội nghị TW 5 Khóa XII, Chính phủ đã ban hành các Nghị quyết số 35, Nghị quyết số 19 năm 2016 - 2017 - 2018, Nghị quyết số 02 năm 2019 về cải thiện môi trường đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, trong đó đưa ra các giải pháp đột phá để hỗ trợ doanh nghiệp, nhiều địa phương đã duy trì và nâng cao chất lượng cơ chế đối thoại chính sách để tháo gỡ khó khăn về chính sách liên quan đến lao động, đất đai, vốn, thuế, hải quan… Tuy nhiên, năng lực nội tại của các DNNVV vẫn còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế, cụ thể: đa số các DNNVV có quy mô nhỏ và siêu nhỏ, hoạt động sản xuất còn nhỏ lẻ manh mún; thiếu vắng sự liên kết, đặc biệt liên kết giữa doanh nghiệp nhỏ với doanh nghiệp vừa và lớn; năng xuất trong khu vực DNNVV thấp, năng lực cạnh tranh, thích nghi với thị trường còn yếu; máy móc, thiết bị, công nghệ lạc hậu… Từ góc nhìn của tổ chức đại diện doanh nghiệp, chúng tôi nhận thấy, mặc dù cơ chế chính sách đã được ban hành nhiều, tương đối đầy đủ, nhưng chậm được triển khai đã làm mất đi tính cơ hội, lạc hậu so với tình hình thực tiễn, nên phải điều chỉnh bổ sung nhiều đã làm ảnh hưởng đến khu vực doanh nghiệp dân doanh. Bên cạnh đó, một số các cấp chính quyền địa phương vẫn còn lúng túng trong việc đưa ra chính sách, nguồn lực cụ thể để triển khai, mặc dù cơ chế đã có. Để các quy định của Nghị định số 55/2019/NĐ-CP về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp thực sự được triển khai trên thực tế, đi vào cuộc sống, trong phạm vi bài viết, chúng tôi kiến nghị một số giải pháp sau: Thứ nhất: Phải xác định hỗ trợ pháp lý cho DNNVV là một hoạt động cơ bản, thường xuyên, liên tục, là trách nhiệm của các cấp, các ngành. Hoạt động này xuất phát từ bối cảnh thực tế hiện nay, khi nhận thức pháp luật của khu vực kinh tế dân doanh còn nhiều hạn chế, chủ sở hữu, người quản lý trong doanh nghiệp chưa hình thành thói quen tuân thủ pháp luật, chế tài xử lý vi phạm pháp luật chưa nghiêm minh, chưa đảm bảo tính công khai, minh bạch, thực thi pháp luật chưa đạt hiệu quả. Thứ hai: Nhu cầu hỗ trợ pháp lý và tư vấn pháp luật của khu vực DNNVV rất nhiều, phong phú và đa dạng, điều này, xuất phát từ quyền tự do kinh doanh được quy định trong Hiến pháp. Trong khi đó, nguồn lực Nhà nước lại có hạn, hỗ trợ pháp lý chỉ là một hoạt động trong tổng thể các hoạt động hỗ trợ DNNVV. Để tránh lãnh phí, tràn lan, nhưng không đem lại hiệu quả thiết thực, Nhà nước cần xác định rõ các nội dung, hoạt động nào Nhà nước hỗ trợ, nội dung, hoạt động nào doanh nghiệp phải thực hiện thuê dịch vụ pháp lý để phòng ngừa rủi ro theo quy luật của thị trường. Thứ ba: Trong khi cơ cấu, tổ chức, cán bộ làm công tác hỗ trợ pháp lý cho DNNVV trong các cơ quan Nhà nước hiện nay chưa ổn định, sự quan tâm của các cấp chính quyền chưa đồng đều, Nghị định 55/2019/NĐ-CP, Nghị định 39/2018/NĐ-CP đã quy định về cơ chế thiết lập mạng lưới tư vấn viên hỗ trợ cho DNNVV. Vì vậy, các bộ ngành, địa phương cần sớm triển khai cơ chế này, đây có thể được coi là một cơ chế hữu hiệu để triển khai các hoạt động hỗ trợ cho DNNVV một cách hiệu quả. Tuy nhiên, để cơ chế này thực sự phát huy, Nhà nước cần chủ động hướng dẫn, xây dựng tiêu chí, công nhận tư cách của mạng lưới, bố trí kinh phí để duy trì, khuyến khích bồi dưỡng, giám sát, kiểm tra mạng lưới tư vấn viên. Đây cũng được coi là cơ chế để đội ngũ luật sư, luật gia tham gia sâu rộng vào hoạt động hỗ trợ pháp lý cho DNNVV. Thứ tư: Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, những thành quả của kỹ thuật số vào trong công tác hỗ trợ pháp lý cho DNNVV. Thực tế, những người quản lý, chủ sở hữu doanh nghiệp rất bận. Vì vậy, những cách thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật theo phương thức truyền thống cần có sự thay đổi mạnh mẽ, nắm sát đặc điểm tâm lý, đặc thù của doanh nghiệp, chủ động ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin vào hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Thứ năm: Cần có phân loại, phân nhóm các loại hình DNNVV để có các chuyên đề, chương trình hỗ trợ cho phù hợp. Thực tế cho thấy, doanh nghiệp thuộc nhóm ngành sản xuất, chế biến, chế tạo có nhu cầu hỗ trợ khác với doanh nghiệp thuộc nhóm ngành thương mại dịch vụ. Thứ sáu: Cần có sự vào cuộc mạnh mẽ của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương đối với công tác hỗ trợ cho doanh nghiệp nói chung, công tác hỗ trợ pháp lý cho DNNVV nói riêng. Thực tế cho thấy, để thay đổi thói quen tuân thủ pháp luật của DNNVV, chúng ta phải nhìn tổng thể để có các giải pháp thay đổi trên các bình diện về cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, minh bạch, ý thức phục vụ của tổ chức, cá nhân thừa hành công vụ, tính nghiêm minh bình đẳng của thi hành pháp luật./. Nguồn: Tạp chí Luật sư Việt Nam số 11 (tháng 11/2019) – Chuyên trang về hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa | False | Lê Thị Phương | | Vai trò của luật sư đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa | Thông tin | Tin | Vai trò của luật sư đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa | /Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg | | 6/1/2020 3:00 PM | No | Đã ban hành | | Lịch sử hình thành và phát triển của nghề luật sư ở Việt Nam là không dài so với lịch sử phát triển của nghề luật sư ở những quốc gia phát triển như Mỹ, Nhật và các quốc gia châu Âu. Năm 1987, khi Pháp lệnh Luật sư đầu tiên của Việt Nam ra đời thì luật sư mới được coi là một nghề trong xã hội. Tuy nhiên, chỉ từ thời điểm 2001 đến nay, đặc biệt là sau khi Luật Luật sư 2006 được ban hành, cùng với đó là việc Việt Nam hội nhập sâu rộng với thế giới thì nghề luật sư ở Việt Nam mới có môi trường phát triển thật sự. Cũng từ đó mà mối quan hệ hết sức cần thiết giữa luật sư với doanh nghiệp mới được chú trọng xây dựng. Thực tế đã cho thấy, một nền kinh tế càng phát triển, vai trò của luật sư càng quan trọng hơn bao giờ hết. Việc sử dụng dịch vụ tư vấn luật ở các nước phát triển là chuyện thường ngày và không thể thiếu đối với một doanh nghiệp. Những bài toán kinh doanh của doanh nghiệp luôn cần những ý kiến tư vấn của luật sư để bảo đảm tính hợp pháp, hiệu quả và an toàn; bên cạnh đó, luật sư có thể tư vấn, đại diện để giải quyết khi xảy ra tranh chấp. Nếu thiếu hiểu biết pháp luật hoặc hành xử theo ý chí chủ quan, cảm tính, rất dễ dẫn đến hậu quả là doanh nghiệp vi phạm pháp luật, không chỉ gây thiệt hại lớn cho doanh nghiệp mà đôi khi không thể cứu vãn được rủi ro đối với người và tài sản. Do đó, mỗi doanh nghiệp cần có sự trợ giúp về mặt pháp lý thường xuyên của luật sư nội bộ hoặc các công ty luật/văn phòng luật sư để bảo đảm kinh doanh đúng pháp luật và giải quyết những vấn đề pháp lý nảy sinh được nhanh chóng, tiện lợi. Các hãng luật có thể cung cấp những dịch vụ pháp lý cho doanh nghiệp như: - Tư vấn pháp luật thường xuyên cho các doanh nghiệp: Là việc ký kết hợp đồng tư vấn dài kỳ cho các doanh nghiệp có nhu cầu. Luật sư tư vấn là những người vững vàng về chuyên môn và có kinh nghiệm thực tiễn, đặc biệt là kinh nghiệm trên thương trường. Cơ chế làm việc linh hoạt của luật sư sẽ luôn bảo đảm sự thuận lợi cho doanh nghiệp. - Hỗ trợ, tư vấn khởi tạo doanh nghiệp: Khi khởi nghiệp kinh doanh, gia nhập thị trường, doanh nghiệp luôn gặp khó khăn về pháp lý, có thể nói là "Vạn sự khởi đầu nan". Do vậy, có luật sư hỗ trợ, tư vấn là rất cần thiết và quan trọng cho các doanh nghiệp. Hoạt động này cung cấp các dịch vụ như: tư vấn lựa chọn loại hình doanh nghiệp, tiến hành các thủ tục thành lập doanh nghiệp, cơ cấu lại doanh nghiệp; mua bán doanh nghiệp, chuyển nhượng cổ phần; sáp nhập, chuyển đổi loại hình doanh nghiệp; tư vấn về quản lý nhân sự, quản lý theo pháp luật về tài chính, thuế, sở hữu trí tuệ; hỗ trợ xác lập giao dịch về hợp đồng đầu tư, mua bán, vay vốn, thế chấp, chuyển nhượng vốn; xây dựng các quy chế hoạt động cho doanh nghiệp, soạn thảo các biểu mẫu giấy tờ giao dịch chuẩn mực... - Đại diện ngoài tố tụng: Khi doanh nghiệp không muốn hoặc không có điều kiện để đàm phán với đối tác, làm việc với cơ quan công an, tòa án, thuế, hải quan hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác, luật sư có thể đại diện cho doanh nghiệp để thực hiện các công việc này. - Tìm kiếm đối tác, nghiên cứu thị trường, xúc tiến thương mại đầu tư: Qua quá trình tư vấn pháp luật, luật sư có được những mối quan hệ mật thiết với nhiều doanh nghiệp và có được những kinh nghiệm cũng như sự hiểu biết về thị trường, do đó, luật sư sẽ là những địa chỉ tin cậy cho các doanh nghiệp trong việc tìm kiếm các đối tác kinh doanh trong các lĩnh vực. - Tư vấn pháp luật tài chính - ngân hàng: Hoạt động này giúp cho doanh nghiệp có được tình hình tài chính lành mạnh, sử dụng đồng vốn hiệu quả, hạch toán, kế toán đúng chế độ. Luật sư sẽ giúp doanh nghiệp tránh được rủi ro bị phạt thuế, truy thu thuế - một rủi ro tiềm tàng khi thực hiện chế độ tự kê khai, tự nộp thuế. Mặt khác, luật sư còn giúp doanh nghiệp xây dựng phương án kinh doanh, vay vốn ngân hàng hoặc huy động vốn từ các nhà tài trợ khác. - Tư vấn pháp luật về hợp đồng: Khi có sự tham gia của luật sư, những hợp đồng mà doanh nghiệp tham gia ký kết sẽ bảo đảm được tính hợp pháp cũng như phù hợp với tập quán thương mại; chặt chẽ và đầy đủ. Đồng thời sẽ giảm thiểu ở mức thấp nhất những rủi ro có thể xảy ra do những quy định lỏng lẻo trong hợp đồng; những cam kết, thoả thuận bị vô hiệu do trái pháp luật… - Hỗ trợ doanh nghiệp tránh nợ xấu, thu hồi nợ tồn đọng: Các khoản nợ khó đòi là gánh nặng tài chính của doanh nghiệp. Luật sư sẽ giúp doanh nghiệp ngay từ khâu đầu tiên như thẩm định năng lực đối tác, đàm phán đến ký kết hợp đồng, giám sát việc thực hiện hợp đồng để giảm thiểu tối đa những khoản nợ xấu. Bên cạnh đó, có nhiều khoản nợ bản thân doanh nghiệp không thể tự đòi được, vì vậy, sự tham gia của luật sư trong việc hỗ trợ doanh nghiệp thu hồi nợ tồn đọng là cần thiết. Bằng hiểu biết pháp luật và kỹ năng giao tiếp bài bản, luật sư sẽ tạo ra nhiều cơ hội thành công hơn cho việc thu hồi nợ khó đòi. - Tham gia tranh tụng và hòa giải: Trong quá trình kinh doanh, có thể tới một thời điểm nào đó, doanh nghiệp sẽ gặp các tranh chấp về hợp đồng với các đối tác hay thậm chí cần khiếu nại đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật... Trong những tình huống đó, doanh nghiệp cần hơn bao giờ hết sự tư vấn từ phía những người am hiểu pháp luật và được đào tạo cơ bản, có kinh nghiệm giải quyết vụ việc để tham gia việc hòa giải hay tranh tụng tại tòa án/trọng tài thương mại. Tùy từng trường hợp cụ thể mà luật sư sẽ tư vấn cho doanh nghiệp lựa chọn được phương án giải quyết tranh chấp đơn giản, ít thua thiệt và mang lại lợi ích tối đa cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, luật sư còn có thể là đầu mối giúp doanh nghiệp sử dụng những dịch vụ như: thẩm định giá, bán đấu giá, kiểm toán, các dịch vụ trong hợp tác quốc tế…/. Nguồn: Tạp chí Luật sư Việt Nam số 11 (tháng 11/2019) – Chuyên trang về hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa | False | Lê Thị Phương | | Giải pháp tăng cường vai trò của luật sư trong công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa | Thông tin | Tin | Giải pháp tăng cường vai trò của luật sư trong công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa | /Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg | | 6/1/2020 3:00 PM | No | Đã ban hành | | Thực trạng và khả năng đáp ứng của đội ngũ luật sư Cùng với sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong 20 năm qua, cho chúng ta thấy nhu cầu tư vấn pháp luật của các doanh nghiệp là rất lớn. Có thể lý giải một phần do doanh nghiệp đã ý thức được vai trò của luật sư và do tính chuyên nghiệp hóa, chuyên môn hóa trong đời sống kinh tế - xã hội được nâng cao. Với việc đội ngũ luật sư ngày càng đông, các tổ chức hành nghề luật sư xuất hiện ngày càng nhiều, sự cạnh tranh giữa các tổ chức hành nghề này đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Và hệ quả tất yếu là chất lượng phục vụ của luật sư đối với doanh nghiệp ngày càng tăng, đồng thời mức phí giảm, tạo nên sức hấp dẫn thu hút các doanh nghiệp. Nếu như trước kia, hoạt động của luật sư còn khá thụ động, trông chờ doanh nghiệp tìm đến mới cung cấp dịch vụ thì nay luật sư ngày càng chuyên nghiệp hơn trong việc quảng bá hình ảnh, thương hiệu của mình đến các doanh nghiệp. Và không thể phủ nhận rằng các nội dung hoạt động của luật sư đã trở nên đa dạng, phong phú hơn nhiều so với trước kia. Tuy nhiên, việc thực hiện pháp luật kinh doanh của doanh nghiệp hiện nay vẫn còn nhiều bất cập. Các báo cáo khảo sát của VCCI, VINASME và các tổ chức tư vấn độc lập đã chỉ ra rằng tình trạng các doanh nghiệp nhỏ và vừa của nước ta được thành lập, đi vào hoạt động kinh doanh nhưng người đầu tư, chủ sở hữu không nắm được các quy định cơ bản về pháp luật kinh doanh còn phổ biến, chưa có thói quen tuân thủ pháp luật, chưa thực sự chú trọng đến việc áp dụng, thực hiện pháp luật để phòng, tránh rủi ro trong kinh doanh. Do đó, nhiều khi doanh nghiệp đã phải chịu nhiều tổn thất không đáng có do những rủi ro hoàn toàn có thể phòng ngừa được gây ra. Chúng tôi được biết, qua khảo sát ngẫu nhiên 200 doanh nghiệp do VCCI tiến hành cho thấy: có 7,5% các doanh nghiệp được hỏi ở phía Bắc, 5% các doanh nghiệp được hỏi ở phía Nam là có hay không việc ký hợp đồng tư vấn luật thường xuyên với văn phòng luật sư, theo đó luật sư tham gia soạn thảo các quy định và các mẫu hợp đồng cho công ty. Chủ doanh nghiệp của khoảng 20% các doanh nghiệp được hỏi ở phía bắc và 25% các doanh nghiệp được hỏi ở phía nam có quan tâm và tự tìm hiểu các pháp luật liên quan trong quá trình vận hành hoạt động của doanh nghiệp. Còn lại các doanh nghiệp liên hệ với luật sư khi các doanh nghiệp này cần luật sư tham gia tố tụng khi phát sinh vụ việc. Chính do điều này mà khi có xảy ra tranh chấp thương mại, đầu tư hay lao động…, các luật sư chỉ có thể tham gia sau khi "việc đã rồi", khó cứu doanh nghiệp thoát khỏi thiệt hại nặng nề. Ngoài ra còn xuất phát từ tâm lý chủ quan, "văn hóa" của doanh nghiệp, cho rằng việc "vô phúc đáo tụng đình" sẽ hiếm khi hoặc sẽ không xảy ra đối với doanh nghiệp của mình, vì vậy đa số ít quan tâm đến việc tìm hiểu luật và thuê luật sư. Khi tình hình kinh doanh khó khăn, tình trạng nợ khó đòi gia tăng, các tranh chấp lao động và tranh chấp phát sinh trong nội bộ hội đồng quản trị doanh nghiệp, hội đồng thành viên ngày càng nhiều. Nếu không có điều kiện tìm hiểu luật, các chủ doanh nghiệp cần quan tâm hơn đến việc tìm kiếm một luật sư hoặc một công ty luật tư vấn đồng hành cùng hoạt động của doanh nghiệp. Để tránh rủi ro cho chính mình, tốt hơn hết, các doanh nghiệp không nên để xảy ra hiện tượng "sự đã rồi" hoặc "nước đến chân mới nhảy". Bên cạnh đó, nhìn chung trình độ của luật sư của nước ta hiện nay còn có nhiều hạn chế. Số lượng luật sư hiện nay chưa được đào tạo một cách bài bản về kỹ năng hành nghề luật sư còn khá nhiều, kỹ năng hành nghề yếu, ứng xử với khách hàng không đúng mực trong quá trình cung cấp dịch vụ dẫn dến những định kiến, ảnh hưởng xấu đến hình ảnh của nghề luật sư. Về mức độ chuyên môn hóa, hiện nay vẫn chưa hình thành được đội ngũ các luật sư chuyên sâu về những lĩnh vực khác nhau. Số lượng luật sư có đủ kinh nghiệm, kỹ năng tư vấn pháp luật trong lĩnh vực thương mại quốc tế, đàm phán giải quyết tranh chấp quốc tế chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Theo báo cáo của cơ quan chủ quản thì hiện nay cả nước chưa đầy 200 tổ chức hành nghề luật sư chuyên sâu trong lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, thương mại có yếu tố nước ngoài. Luật sư tham gia vào công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp Hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, được hiểu là hoạt động dưới sự dẫn dắt của Nhà nước, để tăng cường năng lực pháp luật cho doanh nghiệp. Trong thời gian qua, khi triển khai Nghị định số 66/2008/NĐ-CP về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, chúng tôi nhận thấy: sự tham gia của đội ngũ luật sư vào hoạt động này còn mờ nhạt, nhiều luật sư chưa hiểu về chính sách hỗ trợ của Nhà nước về pháp lý cho doanh nghiệp; chưa có cơ chế để thu hút luật sư tham gia vào công tác này, kinh phí còn hạn hẹp. Giải pháp tăng cường vai trò của luật sư trong công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa Với những điểm mới về nội dung hỗ trợ pháp lý và thay đổi cách thức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa theo tinh thần Nghị định số 55/2019/NĐ-CP, chúng tôi nhận thấy vai trò của luật sư trong tham gia công tác này là rất quan trọng, bởi hơn ai hết, đội ngũ luật sư là những người am hiểu về pháp luật, có tư duy pháp lý. Vì vậy, để luật sư tham gia có hiệu quả hơn vào công tác này trong thời gian tới, chúng tôi đề nghị những nội dung sau: i) Cơ quan nhà nước, các bộ, ngành cần tạo điều kiện thuận lợi để các luật sư có thể tham gia vào mạng lưới tư vấn viên. ii) Bộ Tư pháp, sở tư pháp các tỉnh, thành phố nên có văn bản hướng dẫn các tổ chức hành nghề luật sư tại địa phương tham gia vào công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. iii) Xúc tiến việc ký kết thỏa thuận ba bên (sở tư pháp - đoàn luật sư - hiệp hội doanh nghiệp tỉnh) để xây dựng chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp tại địa bàn địa phương, trình UBND tỉnh ban hành. iv) Về phía các đoàn luật sư và Liên đoàn Luật sư Việt Nam, chúng tôi sẽ kiến nghị sửa đổi Luật Luật sư trong thời gian tới, đưa nội dung "nếu luật sư thực hiện hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa theo chương trình của Nhà nước" sẽ được miễn bồi dưỡng nghiệp vụ hoặc trợ giúp pháp lý theo nghĩa vụ bắt buộc. v) Nên hình thành Quỹ hỗ trợ pháp lý doanh nghiệp nhỏ và vừa để đẩy nhanh tiến trình hợp tác hỗ trợ của luật sư đối với doanh nghiệp; huy động doanh nghiệp, các nhà tài trợ cùng tham gia vào công tác hỗ trợ pháp lý. Trong điều kiện phát triển thị trường, đa phương hóa quan hệ hợp tác kinh doanh hiện nay, chắc chắn quan hệ đồng hành luật sư với doanh nghiệp sẽ là vấn đề được hai giới quan tâm vì lợi ích và sự phát triển chung và phù hợp với thông lệ quốc tế./. Nguồn: Tạp chí Luật sư Việt Nam số 11 (tháng 11/2019) – Chuyên trang về hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa | False | Lê Thị Phương | | Các biện pháp phòng vệ thương mại trong CPTPP và những lưu ý cho doanh nghiệp Việt Nam | Thông tin | Tin | Các biện pháp phòng vệ thương mại trong CPTPP và những lưu ý cho doanh nghiệp Việt Nam | /Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg | | 5/1/2020 5:00 PM | No | Đã ban hành | | Các biện pháp phòng vệ thương mại (PVTM) gồm chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ là một phần trong chính sách thương mại của các quốc gia, đồng thời cũng là nội dung đàm phán quan trọng của các hiệp định thương mại. Chương 6 của Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (Hiệp định CPTPP) đã đưa ra những quy định về các biện pháp này mà mỗi quốc gia thành viên của CPTPP đều phải tuân thủ. Bài viết này phân tích những quy định về nội dung PVTM trong CPTPP, đồng thời đưa ra những lưu ý cho các doanh nghiệp Việt Nam về các vấn đề liên quan đến PVTM trong bối cảnh Việt Nam thực thi các cam kết của CPTPP. Nội dung về phòng vệ thương mại trong CPTPP PVTM là nội dung thuộc Chương 6 của Hiệp định CPTPP gồm 02 phần chính: các quy định về biện pháp tự vệ và các quy định về chống bán phá giá và chống trợ cấp. Các quy định về biện pháp tự vệ Bên cạnh các nghĩa vụ về tự vệ mà các thành viên CPTPP phải tuân thủ theo Hiệp định về biện pháp tự vệ của WTO và Điều XIX Hiệp định chung về thuế quan và thương mại 1994, CPTPP còn bổ sung thêm một quy trình tự vệ mới. Các biện pháp tự vệ mà các thành viên CPTPP có thể sử dụng bao gồm tự vệ toàn cầu (là biện pháp tự vệ áp dụng với tất cả thành viên WTO) và tự vệ trong thời gian chuyển đổi (tự vệ riêng của CPTPP). Tự vệ toàn cầu Tự vệ toàn cầu là biện pháp tự vệ phải được áp dụng đối với tất cả các nước thành viên WTO không loại trừ nước nào. Tuy nhiên, một nước CPTPP có thể loại trừ áp dụng biện pháp tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu từ một nước thành viên khác nếu hàng hóa của thành viên đó đồng thời thỏa mãn hai điều kiện sau1: hàng hóa đó được nhập khẩu theo hạn ngạch thuế quan hoặc nằm trong danh mục cắt giảm thuế2; hàng hóa nhập khẩu không phải là nguyên nhân gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đối với ngành sản xuất nội địa của nước đó. Khi sử dụng biện pháp tự vệ toàn cầu, các bên không được áp dụng hoặc duy trì đồng thời các biện pháp sau đối với cùng một loại hàng hóa, vào cùng một thời điểm: biện pháp tự vệ trong thời gian chuyển tiếp; biện pháp tự vệ theo quy định của WTO; biện pháp tự vệ được quy định tại Phụ lục B trong Biểu Phụ lục 2-D (Các cam kết thuế quan); một hành động khẩn cấp theo Chương 4 của CPTPP về hàng hóa dệt may và phụ kiện3. Tự vệ trong thời gian chuyển tiếp Trong giai đoạn chuyển tiếp4, khi nhiều dòng thuế của các thành viên CPTPP được xóa bỏ hoàn toàn sẽ rất dễ dẫn đến tình trạng lượng nhập khẩu gia tăng đột biến từ các thành viên khác. Vì vậy, CPTPP thiết lập cơ chế tự vệ trong thời gian chuyển tiếp. Tự vệ trong giai đoạn chuyển tiếp cho phép một nước thành viên ápdụng biện pháp tự vệ chỉ trong thời gian chuyển tiếp nếu lượng nhập khẩu gia tăng đột biến5 do kết quả của việc cắt giảm thuế theo các cam kết trong CPTPP, đồng thời sự gia tăng đó gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại nghiêm trọng đối với ngành sản xuất trong nước. CPTPP cấm các thành viên sử dụng biện pháp tự vệ chuyển tiếp bằng cách thức quy định hạn ngạch thuế quan hoặc hạn chế số lượng. Thay vào đó, các bên có thể sử dụng các công cụ tự vệ chuyển tiếp sau: đình chỉ việc tiếp tục giảm thuế theo cam kết đối với mặt hàng đó; tăng thuế suất đối với hàng hóa đó không vượt quá thuế suất theo nguyên tắc tối huệ quốc có hiệu lực tại thời điểm áp dụng biện pháp này hoặc thuế suất theo nguyên tắc tối huệ quốc có hiệu lực vào ngày liền trước ngày Hiệp định có hiệu lực, tùy mức nào thấp hơn6. Thời hạn áp dụng biện pháp tự vệ chuyển tiếp không được vượt quá 02 năm. Trong trường hợp cần thiết7, thời hạn áp dụng có thể kéo dài thêm tối đa 01 năm. Tuy nhiên, các bên không được duy trì biện pháp tự vệ chuyển tiếp vượt quá thời hạn của giai đoạn chuyển tiếp. Nếu thời gian áp dụng biện pháp tự vệ chuyển tiếp nhiều hơn 01 năm, nước áp dụng biện pháp này phải dần nới lỏng biện pháp đó một cách đều đặn trong suốt thời gian áp dụng. Kết thúc giai đoạn áp dụng biện pháp tự vệ chuyển tiếp, mức thuế quan đối với loại hàng hóa đó sẽ được điều chỉnh bằng mức được nêu trong biểu cam kết về thuế của các thành viên. Bất kỳ loại hàng hóa nào cũng chỉ có thể bị áp dụng biện pháp tự vệ chuyển tiếp duy nhất một lần. Trong quá trình điều tra để áp dụng biện pháp tự vệ này, nước điều tra phải thông báo bằng văn bản cho nước bị điều tra8. Đồng thời, các bên phải tiến hành cung cấp các bản báo cáo công khai của cơ quan có thẩm quyền, nhằm bảo đảm tính minh bạch của quy trình, thủ tục này9. Khác với công cụ chống bán phá giá và chống trợ cấp, biện pháp tự vệ là một biện pháp phải trả phí, điều đó có nghĩa là, một quốc gia khi áp dụng biện pháp tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu đến từ một nước khác, thì sẽ phải tiến hành những nhượng bộ tương ứng trong lĩnh vực khác. Ngay trong quy trình tham vấn, bên áp dụng biện pháp tự vệ chuyển tiếp phải đưa ra các hình thức đền bù. Việc đền bù có thể được tiến hành thông qua hình thức nhượng bộ thương mại tương đương hoặc tương đương một khoản thuế bổ sung trong biện pháp tự vệ chuyển tiếp. Việc tham vấn này sẽ phải được tiến hành trong khoảng thời gian 30 ngày, kể từ thời điểm biện pháp tự vệ chuyển tiếp được áp dụng. Trong trường hợp các bên không đi đến sự thống nhất về việc đền bù, bên bị áp dụng biện pháp tự vệ chuyển tiếp có thể đình chỉ áp dụng thuế suất ưu đãi tương đương đáng kể với thương mại của bên áp dụng biện pháp tự vệ chuyển tiếp . Biện pháp tự vệ đặc biệt đối với hàng dệt may Ngoài các quy định chung về PVTM được đề cập tại Chương 6, CPTPP còn đưa ra quy định về biện pháp tự vệ riêng đối với hàng dệt may thuộc Chương 4 của Hiệp định. Trong trường hợp một sản phẩm dệt may của một nước CPTPP được hưởng ưu đãi thuế quan theo Hiệp định và xuất khẩu sang một nước thành viên khác với một khối lượng gia tăng và gây ra thiệt hại nghiêm trọng, hoặc là đe dọa gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất nội địa của nước đó, thì nước nhập khẩu có quyền áp dụng biện pháp tự vệ đặc biệt đối với sản phẩm dệt may đó bằng cách nước nhập khẩu có thể không tiếp tục áp dụng ưu đãi thuế quan cho sản phẩm dệt may đó nữa và nâng mức thuế lên ngang bằng với mức thuế tối huệ quốc (thuế MFN) theo WTO tại thời điểm đó. Biện pháp này chỉ được áp dụng trong một khoảng thời gian cần thiết đủ để ngăn ngừa hoặc bù đắp các thiệt hại do hàng nhập khẩu đó gây ra đối với ngành sản xuất nội địa của nước nhập khẩu. Các quy định về chống bán phá giá và chống trợ cấp Đối với các quy định về chống bán phá và chống trợ cấp, các nước thành viên CPTPP phải tuân thủ các quy định nêu trong Hiệp định Chống bán phá giá và Hiệp định về Trợ cấp và các biện pháp đối kháng của WTO. Vì vậy, CPTPP sẽ không ảnh hưởng đến các quyền lợi và nghĩa vụ theo quy định của WTO liên quan đến chống bán phá giá và chống trợ cấp, hay cũng không bổ sung thêm bất kỳ quyền lợi và nghĩa vụ nào. Bên cạnh Điều 6.8, CPTPP quy định về Thông lệ liên quan đến thủ tục chống bán phá giá và thuế đối kháng tại Phụ lục 6-A của Hiệp định. Các quy định này nhằm thúc đẩy các mục tiêu minh bạch hóa và quy trình đúng đắn đối với các biện pháp phòng vệ thương mại. Một số lưu ý cho doanh nghiệp trong bối cảnh Việt Nam thực thi các cam kết về PVTM trong CPTPP Những cam kết về vấn đề phòng vệ thương mại trong CPTPP đem lại nhiều ý nghĩa và lợi ích đối với doanh nghiệp, đồng thời, quy định này cũng mang lại những thách thức không nhỏ cho các doanh nghiệp Việt Nam. Do đó, khi Việt Nam thực thi cam kết của CPTPP về PVTM, doanh nghiệp cần lưu ý những vấn đề sau: Một là, doanh nghiệp cần phải nắm rõ các quy định về PVTM. Bên cạnh các quy định về PVTM trong CPTPP, doanh nghiệp cần nắm rõ quy định về PVTM của Việt Nam và pháp luật của thành viên CPTPP về PVTM trong trường hợp doanh nghiệp là đối tượng bị điều tra PVTM ở thị trường nước ngoài. Hai là, doanh nghiệp cần nâng cao năng lực sử dụng công cụ PVTM. Cụ thể, các doanh nghiệp nên lưu ý các điểm sau đây: - Thu thập và chuẩn bị số liệu một cách chính xác và khách quan để bảo đảm đơn kiện được chấp thuận và vụ việc sẽ được khởi xướng điều tra bởi cơ quan có thẩm quyền. - Trong bối cảnh các vụ kiện về PVTM ngày càng gia tăng, các doanh nghiệp cần thiết lập quỹ dự phòng về PVTM để bảo đảm những nguồn lực cần thiết cho việc theo đuổi các vụ kiện. - Chú trọng đào tạo, xây dựng đội ngũ pháp lý của doanh nghiệp có kiến thức về PVTM để có thể chủ động ứng phó khi vụ kiện PVTM xảy ra. - Phối hợp với các doanh nghiệp cùng ngành cũng như hiệp hội doanh nghiệp trong việc thu lập số liệu, chứng cứ và theo đuổi các vụ kiện. - Lưu trữ hồ sơ, tài liệu đầy đủ, rõ ràng và tuân thủ theo các chuẩn mực và thông lệ quốc tế để bảo đảm rằng, những hồ sơ đó sẽ được cơ quan điều tra nước ngoài chấp nhận. - Tham gia đầy đủ vào quy trình điều tra của cơ quan điều tra, đặc biệt là trong các vụ kháng kiện. Ba là, tận dụng một cách có hiệu quả sự hỗ trợ từ cơ quan quản lý nhà nước liên quan đến các vấn đề về PVTM. Hiện nay, Cục Phòng vệ thương mại của Bộ Công thương đã xây dựng một cách hiệu quả hệ thống cảnh báo sớm , các doanh nghiệp có thể tận dụng kênh thông tin hữu ích này để chủ động hơn trong các phương án kinh doanh hoặc việc theo đuổi các vụ kháng kiện. Đồng thời, doanh nghiệp có thể đề xuất cơ quan quản lý nhà nước tiến hành vận động hành lang đối với chính phủ và cơ quan điều tra của nước ngoài để có thể đạt được những kết quả có lợi nhất cho doanh nghiệp trong quá trình điều tra. Kết luận Các biện pháp PVTM là một công cụ nhằm duy trì trật tự thương mại một cách công bằng, hợp lý cho các nước thành viên CPTPP. Tuy nhiên, việc áp dụng các biện pháp PVTM là "quyền" chứ không phải là nghĩa vụ của các nước thành viên. Để thực hiện quyền này, nghĩa vụ của các nước thành viên là phải bảo đảm tuân thủ theo thỏa thuận về các biện pháp PVTM tương ứng với quyền này theo tiêu chí chung. Quy định về PVTM trong CPTPP được hiểu là cam kết WTO+. Bên cạnh đó, cách thức áp dụng biện pháp tự vệ theo CPTPP cũng được quy định cụ thể. Ngoài biện pháp tự vệ toàn cầu mà các thành viên CPTPP dành cho các thành viên WTO, thì các nước thành viên CPTPP cũng có thể áp dụng các biện pháp tự vệ trong thời gian chuyển tiếp do tác động của Hiệp định này gây ra. Đồng thời CPTPP cũng nhấn mạnh yêu cầu về tính minh bạch trong quy trình điều tra. Do đó, các quy định chặt chẽ về trình tự, thủ tục, điều kiện áp dụng các biện pháp PVTM theo CPTPP có vai trò thúc đẩy minh bạch hóa việc áp dụng các biện pháp PVTM cũng như tránh lạm dụng công cụ này trong hoạt động thương mại quốc tế của các nước thành viên. Nắm rõ các quy định về PVTM sẽ giúp các doanh nghiệp Việt Nam tận dụng được lợi thế của công cụ này và hạn chế những tác động tiêu cực do biện pháp này mang lại./. Nguồn: Tạp chí Luật sư Việt Nam số 11 (tháng 11/2019) – Chuyên trang về hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa | False | Đào Thị Quyên | | Ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp | Thông tin | Tin | Ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp | /Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg | | 5/1/2020 4:00 PM | No | Đã ban hành | | Công nghệ thông tin (CNTT) đã và đang đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội trong thời đại ngày nay. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) đang mở ra nhiều cơ hội, đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức đối với mỗi quốc gia, tổ chức và cá nhân. Nắm bắt được xu hướng của thời đại, trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành đẩy mạnh ứng dụng, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, nghiên cứu nắm bắt, nâng cao năng lực tiếp cận và chủ động tham gia cuộc CMCN 4.0. Đặc trưng của CNTT và cuộc CMCN 4.0 là khả năng vượt trội về thời gian, không gian. Đặc biệt, khi CNTT được ứng dụng và phát triển ở mức độ cao sẽ từng bước hình thành sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành của Đảng, Nhà nước và Chính phủ trên nền tảng CNTT với khái niệm "Quốc hội điện tử" "Chính phủ điện tử". Một hệ thống hạ tầng thông tin quốc gia đồng bộ, hiện đại, chuẩn hóa, liên thông có các yếu tố giao lưu, hợp tác, chia sẻ dữ liệu trong quản lý điều hành sẽ được triển khai trên thực tế. Công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp (HTPLDN) là một hoạt động nằm trong tổng thể các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp đã và đang được triển khai trong thời gian vừa qua, hoạt động này được thực hiện trên cơ sở Nghị định số 66/2008/NĐ-CP ngày 28/5/2008 về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp (Nghị định số 66/2008/NĐCP), Quyết định số 585/QĐ-TTg ngày 05/5/2010 Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành dành cho doanh nghiệp giai đoạn 2010-2014 (viết tắt là Chương trình 585) và Quyết định số 2139/QĐTTg ngày 28/11/2014 về việc kéo dài chương trình 585 đến năm 2020. Nội dung của hoạt động này tập trung vào các nhiệm vụ sau: 1) Xây dựng và khai thác các cơ sở dữ liệu pháp luật phục vụ hoạt động của doanh nghiệp, cụ thể: Các bộ, ngành, địa phương có tổ chức xây dựng, duy trì, cập nhật cơ sở dữ liệu về văn bản quy phạm pháp luật trong phạm vi ngành, lĩnh vực do mình quản lý có liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp để đăng tải trên trang thông tin điện tử chính thức của bộ, ngành, trừ văn bản thuộc danh mục bí mật Nhà nước theo quy định của pháp luật, Doanh nghiệp được tiếp cận, sử dụng miễn phí các thông tin đăng tải trên trang thông tin điện tử nêu trên. 2) Xây dựng tài liệu giới thiệu, phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật, cụ thể: Các bộ, ngành biên soạn tài liệu giới thiệu, phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật mới ban hành trong phạm vi ngành, lĩnh vực do mình quản lý có liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp. 3) Bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho doanh nghiệp, cụ thể: Các bộ, ngành tổ chức biên soạn tài liệu bồi dưỡng kiến thức pháp luật trong phạm vi ngành, lĩnh vực do mình quản lý có liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp và phối hợp với ủy ban nhân dân cấp tỉnh, các tổ chức đại diện của doanh nghiệp thực hiện việc bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho doanh nghiệp. 4) Giải đáp pháp luật cho doanh nghiệp, cụ thể: Doanh nghiệp có quyền yêu cầu các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh giải đáp pháp luật trong phạm vi ngành, lĩnh vực do mình quản lý có liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp, việc giải đáp pháp luật được thực hiện thông qua các hình thức mạng điện tử, giải đáp trực tiếp hoặc thông qua điện thoại. 5) Đối thoại tổng hợp kiến nghị của doanh nghiệp liên quan đến các quy định pháp luật để sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật. 6) Xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, cụ thể: Bộ Tư pháp, các bộ, ngành và các địa phương chủ động xây dựng chương trình hỗ trợ pháp lý doanh nghiệp cấp liên ngành hoặc cấp bộ, ngành, địa phương để trình cấp có thẩm quyền phê duyệt. Để triển khai các nhiệm vụ này, Bộ Tư pháp và các bộ, ngành có liên quan đã tăng cường ứng dụng CNTT vào hoạt động hỗ trợ, cụ thể: đưa các đề cương, kế hoạch về hỗ trợ pháp lý doanh nghiệp hằng năm lên cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp để các cơ quan, tổ chức lựa chọn, đăng ký tham gia; xây dựng các chuyên đề về pháp luật kinh doanh phát trên sóng truyền hình và phát thanh ở cả cấp trung ương và địa phương, ứng dụng livestream phát sóng và tương tác trực tiếp với mọi người trên mạng xã hội về các lớp bồi dưỡng kiến thức pháp luật kinh doanh cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc ứng dụng CNTT vào trong công tác hỗ trợ pháp lý doanh nghiệp còn nhiều hạn chế, như: nhận thức về ứng dụng CNTT trong hoạt động hỗ trợ pháp lý doanh nghiệp còn chưa đầy đủ ở cả những cơ quan, tổ chức, cá nhân làm công tác hỗ trợ pháp lý doanh nghiệp và doanh nghiệp; thiếu cơ chế để tăng cường hoạt động bồi dưỡng kiến thức pháp luật qua mạng internet; thiếu công cụ soạn bài giảng dễ sử dụng và phù hợp với trình độ giáo viên và chuyên gia; chất lượng các buổi ứng dụng livestream phát sóng và tương tác trực tiếp chưa đạt yêu cầu; chưa kết nối được mạng lưới tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp với Cổng thông tin quốc gia về hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ứng dụng công nghệ thông tin trong hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp: Xu thế tất yếu trong thời đại 4.0 Trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0 tác động đến mọi mặt đời sống xã hội, Bộ Chính trị vừa ban hành Nghị quyết số 52/NQ-TW ngày 27/9/2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc CMCN lần thứ 4, đối với công tác hỗ trợ pháp lý doanh nghiệp, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 55/2019/NĐ-CP ngày 24/6/2019 về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Do vậy, việc ứng dụng CNTT vào trong công tác hỗ trợ pháp lý doanh nghiệp phải nằm trong tổng thể chính sách ứng dụng CNTT vào trong hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa nói chung. Trong phạm vi bài viết, tác giả xin đề xuất, khuyến nghị một số giải pháp ứng dụng CNTT vào trong hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trên một số bình diện sau: - Ứng dụng mạnh mẽ CNTT vào trong hoạt động bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho doanh nghiệp, với đặc trưng của CNTT là khả năng vượt thời gian và không gian, việc ứng dụng CNTT khiến việc học các khóa bồi dưỡng kiến thức pháp luật không nhất thiết phải đồng bộ, không cần thiết trùng khớp về thời gian giữa dạy và học, cũng không cần phải có tất cả các học viên và giảng viên tại cùng một địa điểm. CNTT giúp tiếp cận những tài liệu học tập từ xa và với những chuyên gia, nhà nghiên cứu, luật sư và các bạn bè ở khắp nơi. Vì vậy, nên tổ chức nhiều khóa tập huấn qua mạng, cần tăng cường tuyên truyền và quảng bá về hình thức đào tạo, bồi dưỡng mới và có hiệu quả cao elearning thông qua các hội thảo, triển lãm và các hội nghị khoa học, số hóa các tài liệu bồi dưỡng để các doanh nghiệp có thể chủ động tìm hiểu, nghiên cứu. - Cần quán triệt nghiêm túc việc thực hiện Chỉ thị số 15/CT-TTg ngày 22/5/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường sử dụng văn bản điện tử trong hoạt động của cơ quan nhà nước, một số bộ, ngành và tỉnh, thành phố đã triển khai hệ thống chứng thực điện tử chữ ký số chuyên dùng Chính phủ, không chỉ cho các văn bản điện tử, mà còn tích hợp vào các trang, cổng thông tin điện tử, hệ điều hành tác nghiệp, hệ thống thông tin chuyên ngành, các dịch vụ như dịch vụ công trực tuyến, cơ sở dữ liệu, đặc biệt như cơ sở dữ liệu về đất đai, tài nguyên khoáng sản, tài nguyên nước, bản đồ, khí tượng thủy văn, giấy phép lái xe đường bộ, y tế, tư pháp, quốc phòng, an ninh. Đây sẽ là nguồn thông tin văn bản quan trọng để các doanh nghiệp truy cập tìm hiểu về chính sách pháp luật liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh… - Kết nối, chia sẻ các thông tin về chính sách hỗ trợ doanh nghiệp thông qua Cổng thông tin điện tử quốc gia về hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Hình thành hệ thống trung tâm dữ liệu quốc gia về hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, các dữ liệu về chính sách hỗ trợ, kể cả những thông tin về quy hoạch ngành hàng, vùng sản xuất giữa các bộ, ngành và địa phương phải kết nối đồng bộ và thống nhất. Hình thành các hệ thống dữ liệu thông tin về chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tin cậy, ổn định. Cần đầu tư mạnh mẽ, trang bị các hệ thống thiết bị thu thập, lưu trữ, xử lý, bảo vệ dữ liệu thông tin. - Có cơ chế khuyến khích và ưu đãi đối với các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp công nghệ tham gia trực tiếp vào quá trình ứng dụng CNTT trong hỗ trợ doanh nghiệp như đào tạo, cập nhật văn bản pháp luật, tư vấn pháp luật thông qua mạng lưới tư vấn viên, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, thu hút nguồn lực xã hội, cộng đồng doanh nghiệp vào hoạt động hỗ trợ pháp lý doanh nghiệp./. Nguồn: Tạp chí Luật sư Việt Nam số 11 (tháng 11/2019) – Chuyên trang về hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa | False | Đào Thị Quyên | | Xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa theo Nghị định số 55/2019/NĐ-CP | Thông tin | Tin | Xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa theo Nghị định số 55/2019/NĐ-CP | /Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg | | 5/1/2020 4:00 PM | No | Đã ban hành | | Nhằm triển khai đồng bộ các hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, tạo chuyển biến căn bản về nhận thức pháp lý, ý thức pháp luật và thói quen tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp; tạo lập các điều kiện cần thiết phục vụ hoạt động thực thi pháp luật để giúp doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả và góp phần nâng cao công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với doanh nghiệp, trên cơ sở Nghị định số 66/2008/NĐ-CP của Chính phủ về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, ngày 05/5/2010, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 585/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành dành cho doanh nghiệp giai đoạn 2010- 2014 (viết tắt là Chương trình 585) và Quyết định số 2139/QĐ-TTg ngày 28/11/2014 về việc điều chỉnh các hoạt động và tiếp tục thực hiện Chương trình 585, thực hiện giai đoạn 2015-2020. Việc tổ chức, triển khai Chương trình 585 trong thời gian qua đã tạo một "cú hích" trong công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, tạo khung hoạt động quan trọng cho hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp ở các bộ, ngành, địa phương và các tổ chức đại diện cho doanh nghiệp. Nhiều bộ, ngành, địa phương đã xây dựng kế hoạch/chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp để tổ chức một cách đồng bộ, có hệ thống các hoạt động hỗ trợ pháp lý nhằm đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp và góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước bằng pháp luật thông qua tiếp nhận và xử lý kịp thời các vướng mắc pháp lý cho doanh nghiệp. Các doanh nghiệp trong mọi lĩnh vực hoạt động đã được tiếp cận các thông tin pháp luật một cách nhanh chóng, chính thống và kịp thời hơn thông qua các hình thức hỗ trợ pháp lý của Nhà nước, góp phần tháo gỡ khó khăn pháp lý cho doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và góp phần phát triển kinh tế, xã hội. Trên cơ sở quy định tại khoản 3 Điều 14 Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017, đồng thời kế thừa các quy định hợp lý của Nghị định số 66/2008/NĐ-CP và thực tiễn xây dựng và tổ chức thực hiện Chương trình 585, các chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa của một số bộ, cơ quan ngang bộ và ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Nghị định 55/2019/NĐ-CP ngày 24/6/2019 của Chính phủ đã quy định chi tiết việc xây dựng, tổ chức thực hiện 3 loại chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, gồm: (i) Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa; (ii) Chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong phạm vi bộ, cơ quan ngang bộ; và (iii) Chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong phạm vi địa phương cấp tỉnh. Cụ thể: 1. Về căn cứ xây dựng và các hoạt động của chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa Căn cứ xây dựng chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa bao gồm: (i) Nhu cầu hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong từng thời kỳ, ngành, lĩnh vực, địa phương; (ii) Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và kế hoạch ban hành các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương cấp tỉnh; và (iii) Nguồn lực của bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương cấp tỉnh, tổ chức đại diện cho doanh nghiệp (khoản 1 Điều 10 Nghị định số 55/2019/NĐ-CP). Các hoạt động của Chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (khoản 2 Điều 10 Nghị định số 55/2019/NĐ-CP) bao gồm: - Hoạt động cung cấp thông tin, bao gồm thông tin pháp luật trong nước, thông tin pháp luật nước ngoài, pháp luật quốc tế, cảnh báo rủi ro pháp lý và chính sách của ngành, lĩnh vực, địa phương liên quan đến doanh nghiệp nhỏ và vừa (nếu có); - Hoạt động bồi dưỡng kiến thức pháp luật, bao gồm bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho doanh nghiệp nhỏ và vừa; bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho người làm công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa và bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho mạng lưới tư vấn viên pháp luật; - Hoạt động tư vấn pháp luật, bao gồm đối thoại, giải quyết các vướng mắc pháp lý cho doanh nghiệp và các hoạt động tư vấn pháp luật khác phù hợp với các quy định của pháp luật trên cơ sở nhu cầu của doanh nghiệp nhỏ và vừa và nguồn lực. 2. Về thời hạn thực hiện chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa Chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa có thời hạn tối đa 05 năm kể từ ngày được phê duyệt (Điều 11 Nghị định số 55/2019/NĐ-CP). 3. Về xây dựng và phê duyệt chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (i) Đối với chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, các tổ chức đại diện cho doanh nghiệp và tổ chức khác, cá nhân có liên quan xây dựng chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. (ii) Đối với chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong phạm vi bộ, cơ quan ngang bộ, bộ, cơ quan ngang bộ lồng ghép các nội dung của chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa vào đề án hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa của bộ, cơ quan ngang bộ theo quy định tại Nghị định số 39/2018/NĐ-CP ngày 11/3/2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa hoặc văn bản quy phạm pháp luật sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế Nghị định này. (iii) Đối với chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong phạm vi địa phương, sở tư pháp chủ trì, phối hợp với các sở, ngành, tổ chức đại diện cho doanh nghiệp, tổ chức khác và cá nhân có liên quan xây dựng và đề xuất chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong phạm vi địa phương trình chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt (Điều 12 Nghị định số 55/2019/NĐ-CP). 4. Về triển khai thực hiện chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa Sau khi chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt, bộ, cơ quan ngang bộ, ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm thực hiện chương trình trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình hoặc giao cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân có chức năng, nhiệm vụ hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa thực hiện. Cơ quan, tổ chức chủ trì thực hiện chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa ban hành và công bố công khai kế hoạch triển khai thực hiện trên cổng thông tin điện tử của mình và Trang thông tin điện tử hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa của Bộ Tư pháp. Việc lựa chọn, ký hợp đồng, đánh giá kết quả thực hiện và thanh lý hợp đồng với cơ quan, tổ chức, cá nhân có chức năng cung cấp dịch vụ hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa để triển khai các hoạt động của chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa được thực hiện theo quy định của pháp luật đấu thầu và pháp luật có liên quan. Bên cạnh đó, cần lưu ý là căn cứ vào nội dung, nguồn lực của chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa và nhu cầu hỗ trợ pháp lý của doanh nghiệp nhỏ và vừa thành viên, tổ chức đại diện cho doanh nghiệp có thể đề xuất chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa do mình chủ trì thực hiện theo đúng nội dung chương trình hỗ trợ, pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa nêu trên; trên cơ sở đó, bộ, cơ quan ngang bộ, ủy ban nhân dân cấp tỉnh hỗ trợ kinh phí nhưng tối đa không quá 50% kinh phí thực hiện chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa do tổ chức đại diện cho doanh nghiệp đề xuất từ nguồn kinh phí thực hiện chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa nêu trên. Kinh phí còn lại do tổ chức đại diện cho doanh nghiệp tự chi trả hoặc từ nguồn xã hội hóa, huy động từ các cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp để thực hiện. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng việc lựa chọn, ký hợp đồng, đánh giá kết quả thực hiện và thanh lý hợp đồng với tổ chức đại diện cho doanh nghiệp nhỏ và vừa như vậy phải được thực hiện theo quy định của pháp luật đấu thầu và pháp luật có liên quan (Điều 13 Nghị định số 55/2019/NĐ-CP). Các chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp được xây dựng và tổ chức thực hiện sẽ tạo ra bước chuyển biến mới trong việc thực thi pháp luật của doanh nghiệp, bảo đảm thực hiện tốt các đạo luật đã và sẽ được ban hành trong thời gian sắp tới và đáp ứng nhu cầu hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Trong đó, tùy thuộc vào từng giai đoạn cụ thể, chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp sẽ tập trung giải quyết các vấn đề ưu tiên như thông tin pháp lý; phổ biến, bồi dưỡng kiến thức pháp luật kinh doanh; kỹ năng, nghiệp vụ pháp chế doanh nghiệp; tư vấn pháp luật cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở các địa bàn khó khăn. Để xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình hỗ trợ pháp luật có hiệu quả thì cần căn cứ vào nhu cầu hỗ trợ pháp lý thực tế của doanh nghiệp tại từng địa phương, vùng miền và từng thời kỳ, cần có sự khảo sát và đánh giá về thực trạng và nhu cầu hỗ trợ pháp lý của doanh nghiệp, từ đó làm cơ sở để xây dựng nội dung các chuyên đề hỗ trợ và cách thức, quy trình triển khai theo các chuyên đề hỗ trợ. Đồng thời quá trình xây dựng và triển khai các chương trình hỗ trợ pháp lý cần có sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, ban ngành có chức năng quản lý, theo dõi việc thi hành pháp luật của doanh nghiệp và các tổ chức đại diện của doanh nghiệp để bảo đảm công tác hỗ trợ pháp lý được đúng trọng tâm, trọng điểm và đúng nhu cầu của doanh nghiệp. Có như vậy các chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp được xây dựng và banh hành mới mang tính khả thi và có ý nghĩa, tác động đối với doanh nghiệp trong việc nâng cao nhận thức pháp luật cũng như giải quyết được các vướng mắc pháp lý doanh nghiệp gặp phải trong quá trình sản xuất, kinh doanh./. Nguồn: Tạp chí Luật sư Việt Nam số 11 (tháng 11/2019) – Chuyên trang về hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa | False | Đào Thị Quyên | | Tác động pháp lý của Hiệp định CPTPP và một số khuyến nghị cho doanh nghiệp | Thông tin | Tin | Tác động pháp lý của Hiệp định CPTPP và một số khuyến nghị cho doanh nghiệp | /Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg | | 5/1/2020 4:00 PM | No | Đã ban hành | | Ngày 11/11/2017, bên lề hội nghị thượng đỉnh APEC ở Việt Nam, 11 quốc gia thành viên của Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã quyết định duy trì Thỏa thuận này ngay cả khi không có Hoa Kỳ, và đổi tên thành Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Ngày 08/3/2018, Hiệp định CPTPP đã được ký tại thủ đô Santiago de Chile. Theo quy định của Hiến pháp Việt Nam năm 2013, Luật Điều ước quốc tế năm 2016, điều ước quốc tế trước khi được Việt Nam ký, gia nhập sẽ phải đánh giá tính tương thích với hệ thống pháp luật trong nước, trong trường hợp có cam kết trái hoặc không tương thích thì cam kết đó phải được Quốc hội cho phép ưu tiên áp dụng và tùy từng trường hợp, cam kết đó được xem xét áp dụng trực tiếp hoặc phải sửa đổi, bổ sung pháp luật trong nước1. Do vậy, Hiệp định đã được rà soát, đánh giá tác động pháp lý trước khi Quốc hội Việt Nam phê chuẩn. Bài viết trình bày tổng quan về tác động pháp lý của CPTPP và một số khuyến nghị cho doanh nghiệp. Tổng quan về CPTPP Về bản chất, Hiệp định CPTPP là một Hiệp định mới giữa 11 nước thành viên, trong đó tích hợp các quy định của Hiệp định TPP đã ký tháng 02/2016 vào Hiệp định này với một số sửa đổi phù hợp, đồng thời tạm hoãn thực hiện một số nghĩa vụ quy định tại Hiệp định TPP (tại Phụ lục của Hiệp định CPTPP) cho đến khi các nước thống nhất chấm dứt việc tạm hoãn thực hiện một, một số hoặc toàn bộ các nghĩa vụ đó. Với CPTPP, trừ việc tạm hoãn tại khoản 5 chú thích 13 và khoản 6 chú thích 14 của Phụ lục 10 B về dịch vụ chuyển phát nhanh, toàn bộ cam kết tại Chương 10 Hiệp định TPP được tích hợp vào Hiệp định CPTPP, đồng nghĩa Việt Nam đã giữ lại phần lớn các cam kết là kết quả từ quá trình đàm phán TPP. So sánh với các cam kết mở cửa thị trường đa phương trước đây của Việt Nam, ví dụ như trong WTO, có thể nhận thấy: với CPTPP, Việt Nam đã đồng ý một mức cam kết mở cửa thị trường sâu rộng và toàn diện nhất từ trước đến nay. Các cam kết đều mang tiêu chuẩn cao nhất trong thực tiễn đàm phán ký kết các FTAs thế hệ mới, ví dụ như phương thức chọn bỏ trong mở cửa thị trường, cơ chế "ratchet - giữ nguyên hiện trạng", minh bạch hóa… Vì vậy, bên cạnh cơ hội tiếp cận thị trường dịch vụ của 10 quốc gia thành viên khác trong CPTPP, Việt Nam cũng sẽ phải đối mặt với không ít thách thức, trong đó có các rủi ro pháp lý từ thực tiễn thực thi các cam kết trong CPTPP Tác động pháp lý Yêu cầu đánh giá tác động pháp lý Thứ nhất, theo quy định của Hiệp định CPTPP thì khi Việt Nam hoàn thành các thủ tục trong nước về việc phê chuẩn và thông báo cho Cơ quan lưu chiểu Hiệp định (Bộ Ngoại giao Newzealand) và khi các điều kiện tại Hiệp định CPTPP được đáp ứng2, thì Hiệp định sẽ có hiệu lực với Việt Nam. Trên thực tế, Quốc hội đã phê chuẩn CPTPP tháng 11 năm 2018 và Hiệp định chính thức có hiệu lực với Việt Nam từ tháng 1 năm 2019. Thứ hai, theo quy định của Hiến pháp năm 2013, Việt Nam " tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên"3, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 nguyên tắc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật là "không làm cản trở việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên"4. Điều 6 Luật Điều ước quốc tế năm 2016 quy định: "Căn cứ vào yêu cầu, nội dung, tính chất của điều ước quốc tế, quốc hội, chủ tịch nước, chính phủ khi quyết định chấp nhận sự ràng buộc của điều ước quốc tế đồng thời quyết định áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế đó đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong trường hợp quy định của điều ước quốc tế đã đủ rõ, đủ chi tiết để thực hiện; quyết định hoặc kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện điều ước quốc tế đó". Hồ sơ trình về đề xuất ký điều ước quốc tế bao gồm "Báo cáo đánh giá sự phù hợp giữa quy định của điều ước quốc tế với quy định của pháp luật Việt Nam"5. Bên cạnh đó, trách nhiệm của Bộ Tư pháp trong việc thẩm định điều ước quốc tế, bao gồm việc đánh giá: "b) Mức độ phù hợp với các quy định của pháp luật Việt Nam"6. Hồ sơ đề nghị thẩm định điều ước quốc tế cũng yêu cầu "c) Báo cáo đánh giá sự phù hợp giữa quy định của điều ước quốc tế với quy định của pháp luật Việt Nam"7. Như vậy, công tác đánh giá tác động pháp lý và sự phù hợp giữa quy định của điều ước quốc tế nói chung và CPTPP nói riêng với quy định pháp luật trong nước là một trong những điều kiện cơ bản của việc đề xuất đàm phán, ký kết và thực thi các điều ước quốc tế, trong đó có CPTPP. Thực tiễn triển khai và kết quả Công việc này do cơ quan chủ trì đàm phán, ký kết điều ước quốc tế thực hiện, cũng như trách nhiệm của Bộ Tư pháp đối với vấn đề rà soát pháp lý và đánh giá tính tương thích của dự thảo điều ước với pháp luật Việt Nam. Có thể nhận thấy, các quy định pháp luật không nên cụ thể trách nhiệm của cộng đồng doanh nghiệp và các đối tượng chịu tác động đối với vấn đề rà soát pháp lý hoặc đánh giá tác động pháp lý. Tuy nhiên, trên thực tế có thể nhận thấy, các tổ chức quốc tế như Ngân hàng thế giới8, hoặc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đã có đánh giá tác động của Hiệp định CPTPP9. Ngày 12/11/2018, Quốc hội thông qua Nghị quyết số 72/2018/QH14 về phê chuẩn Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương cùng các văn kiện liên quan. Trong Nghị quyết nêu trên đã nêu rõ áp dụng trực tiếp các quy định của Hiệp định CPTPP tại Phụ lục 02, trong đó phải kể đến Biểu thuế tại Phụ lục 2 Chương 2 của Hiệp định CPTPP, Phụ lục các phân ngành dịch vụ trong bảng NCM I và II và III Hiệp định CPTPP (liên quan đến mở cửa thị trường dịch vụ); trợ cấp xuất khẩu nông nghiệp, phòng vệ nông nghiệp, cộng gộp xuất xứ và một số khái niệm như: doanh nghiệp nhà nước (state enterprise); hàng tân trang; biện pháp khẩn cấp trong áp dụng biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm, giải quyết tranh chấp giữa chính phủ và nhà đầu tư...10 Bên cạnh đó, Phụ lục 3 của Nghị quyết số 72/2018/QH14 quy định danh mục các luật phải sửa đổi, bổ sung để thực thi CPTPP, bao gồm: i) Bộ luật Lao động năm 2012, với một số yêu cầu sửa đổi, bổ sung, đặc biệt là việc sửa đổi Chương XIII Bộ luật Lao động năm 2012 về công đoàn theo hướng cho phép thành lập tổ chức đại diện của người lao động không thuộc hệ thống Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam và một số sửa đổi liên quan đến đối thoại tại nơi làm việc, thương lượng tập thể, tranh chấp lao động - đình công11. Những nội dung sửa đổi nêu trên đã được cập nhật trong Bộ luật Lao động năm 2019, có hiệu lực từ ngày 01/01/2021. ii) Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) với một số lượng lớn các yêu cầu sửa đổi, bổ sung, như về hiệu lực của hợp đồng với bên thứ ba, về việc sử dụng nhãn hiệu bởi người nhận li-xăng; về thủ tục xác lập, duy trì và thực thi nhãn hiệu; thủ tục giải quyết tranh chấp tên miền; chỉ dẫn địa lý; "cạn quyền" đối với quyền tác giả và quyền liên quan; nộp đơn bằng điện tử, duy trì cơ sở dữ liệu điện tử về nhãn hiệu; bảo hộ dạng dịch nghĩa, phiên tự của chỉ dẫn địa lý, cách tính thiệt hại; bồi thường thiệt hại; nghĩa vụ cung cấp thông tin cho chủ thể quyền; phí tiêu hủy hàng hóa xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ... Những nội dung nêu trên sẽ được sửa đổi cho phù hợp với lộ trình hiệu lực của Hiệp định. Đối với những nội dung cam kết có hiệu lực ngay, đã được sửa đổi, bổ sung bởi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm và Luật Sở hữu trí tuệ năm 2019. iii) Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 cũng có một số yêu cầu sửa đổi liên quan đến vi phạm quyền sở hữu trí tuệ gắn với hành vi phân phối; trách nhiệm hình sự của pháp nhân... và cho phép cơ quan có thẩm quyền có thể khởi tố vụ án hình sự về tội phạm xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp mà không cần có yêu cầu của người bị hại. Các cam kết nêu trên đều có hiệu lực sau 3 năm từ thời điểm CPTPP có hiệu lực. iv) Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Phòng, chống tham nhũng đã được sửa đổi phù hợp. Đánh giá về tác động i) Hiệp định CPTPP gồm 30 chương, các phụ lục và 60 thư trao đổi song phương điều chỉnh những lĩnh vực thương mại truyền thống và phi thương mại như lao động, môi trường, chống tham nhũng… Các cam kết của Hiệp định CPTPP rộng và cao hơn nhiều so với các cam kết của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế, kể cả trong Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) hay các hiệp định thương mại tự do (FTA) khác mà Việt Nam đã tham gia. Theo đó, các lĩnh vực pháp luật chịu tác động lớn nhất của Hiệp định CPTPP sẽ là sở hữu trí tuệ, lao động, môi trường, chống tham nhũng, xuất xứ hàng hóa, dệt may và đấu thầu. Về phạm vi áp dụng, do đây là Hiệp định được ký giữa Việt Nam với 10 nước thành viên còn lại nên về nguyên tắc, việc điều chỉnh pháp luật Việt Nam chỉ áp dụng cho 10 nước thành viên Hiệp định CPTPP. Trong trường hợp Hiệp định có hiệu lực đối với cả 10 nước hoặc ít nước hơn khi Hiệp định có hiệu lực chỉ đối với một số nước theo Điều 3 Hiệp định CPTPP. Tuy nhiên, trong lĩnh vực dịch vụ và đầu tư, một số Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới và Hiệp định thương mại khác mà Việt Nam đã hoặc sẽ ký kết có quy định nguyên tắc tối huệ quốc tự động (MFN tự động) như Hiệp định thương mại tự do với Liên minh kinh tế Á - Âu, các Hiệp định trong khuôn khổ ASEAN và EVFTA. Với quy định này, việc thực hiện các cam kết về đầu tư và dịch vụ trong Hiệp định CPTPP sẽ có tác động lớn hơn thay vì chỉ các nước thành viên của Hiệp định CPTPP. ii) Cùng với quá trình hội nhập quốc tế, hệ thống pháp luật Việt Nam thời gian qua đã được rà soát, hoàn thiện để thực hiện nhiều điều ước quốc tế, đặc biệt là Hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ và gia nhập WTO và quá trình hoàn thiện do những nhu cầu nội tại của hệ thống pháp luật đã giúp hoàn thiện đáng kể hệ thống pháp luật Việt Nam phù hợp hơn với hội nhập quốc tế. Do đó, Nghị quyết số 72/2018/QH14 nêu trên cho thấy, mặc dù với khối lượng đồ sộ của hệ thống pháp luật, nhưng số lượng văn bản được đề xuất sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hoặc ban hành mới không nhiều và phần lớn đã được thực hiện ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực. Kết luận và khuyến nghị Thứ nhất, việc hiểu rõ cam kết, hiểu rõ tác động của các cam kết với khuôn khổ pháp lý điều chỉnh hoạt động sản xuất kinh doanh là điều kiện tiêu quyết cho việc thực thi và tận dụng hiệu quả cơ hội do CPTPP đem lại. Thứ hai, đánh giá tác động pháp lý cần được thực hiện, song song với quá trình đàm phán để có được những thông tin cần thiết về khoảng trống pháp lý giữa cam kết và quy định trong nước, từ đó định hướng và đề ra phương án đàm phán phù hợp. Đây cũng là thời điểm để các doanh nghiệp chịu sự tác động tham gia tích cực vào việc theo dõi diễn biến, đóng góp ý kiến về các mức cam kết. Thứ ba, thực tiễn cho thấy đã có sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan, trong đó có bộ, ngành và cơ quan đàm phán Hiệp định. Tuy nhiên, vai trò của hiệp hội và cộng đồng doanh nghiệp chưa thực sự rõ ràng. Do vậy, các doanh nghiệp cần phải chủ động và tích cực hơn nữa trong việc đánh giá các tác động pháp lý của các cam kết quốc tế trong những ngành, lĩnh vực mà mình chịu tác động trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, bên cạnh các đánh giá tác động về mặt kinh tế, kỹ thuật. Thứ tư, để thực hiện hiệu quả việc đánh giá tác động pháp lý đối với hoạt động sản xuất kinh doanh khi Việt Nam tham gia CPTPP, doanh nghiệp cần phải có sự đầu tư thời gian, nguồn nhân lực cho công tác này để đảm bảo công tác đánh giá tác động pháp lý hiệu quả và chuẩn bị chủ động cho quá trình thực thi, tránh được các rủi ro pháp lý khi tiếp cận thị trường của các đối tác khác trong CPTPP./. Nguồn: Tạp chí Luật sư Việt Nam số 11 (tháng 11/2019) – Chuyên trang về hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa | False | Đào Thị Quyên | | Kế hoạch Hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2020 trên địa bàn tỉnh Bình Dương | Chương trình, kế hoạch công tác | Tin | Kế hoạch Hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2020 trên địa bàn tỉnh Bình Dương | /Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg | | 4/9/2020 10:00 AM | No | Đã ban hành | | | False | Trần Thị Kim Yến | | Hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2020 trên địa bàn tỉnh Bình Dương | Thông tin | Tin | Hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2020 trên địa bàn tỉnh Bình Dương | /Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg | | 4/1/2020 10:00 AM | No | Đã ban hành | | Nhằm tạo chủ động, thống nhất trong công tác chỉ đạo, điều hành, triển khai và phối hợp thực hiện có hiệu quả các hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định tại Nghị định số 55/2019/NĐ-CP ngày 24/6/2019 của Chính phủ về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa; ngày 31/3/2020, Ủy ban nhân dân tỉnh vừa ban hành Kế hoạch số 1485/KH-UBND Hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2020 trên địa bàn tỉnh Bình Dương. 
Kế hoạch xác định rõ trách nhiệm của các sở, ngành tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp huyện trong việc thực hiện các hoạt động cụ thể như: Quản lý, duy trì, cập nhật, khai thác và sử dụng Cơ sở dữ liệu về văn bản quy phạm pháp luật; xây dựng, quản lý, duy trì, cập nhật, khai thác và sử dụng Cơ sở dữ liệu về vụ việc, vướng mắc pháp lý; trả lời đối với vướng mắc pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa; cung cấp thông tin pháp luật; cảnh báo rủi ro pháp lý và chính sách của ngành, lĩnh vực, địa phương liên quan đến doanh nghiệp nhỏ và vừa; bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho doanh nghiệp nhỏ và vừa; tư vấn pháp luật; … để đảm bảo cho các hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa được thực hiện đúng yêu cầu, kịp thời và có hiệu quả. Ủy ban nhân dân tỉnh giao Sở Tư pháp chủ trì, phối hợp các sở, ngành có liên quan tổ chức thực hiện Kế hoạch này. Các sở, ngành tỉnh và Liên Đoàn Doanh nghiệp tỉnh trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình chủ động tổ chức thực hiện hoặc phối hợp thực hiện các hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định./. | False | Trần Thị Kim Yến | | Luật sư trong hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp | Thông tin | Tin | Luật sư trong hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp | /Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg | | 1/10/2020 3:00 PM | No | Đã ban hành | | Việt Nam sau những năm đổi mới, môi trường, cơ chế pháp luật ngày càng đầy đủ, hoàn thiện tạo ra cơ sở pháp lý cần thiết để doanh nghiệp phát triển, đồng thời nó đã khẳng định vai trò của giới luật sư trong hoạt động hỗ trợ pháp lý doanh nghiệp. Doanh nghiệp và luật sư đến với nhau là một tất yếu khách quan trong cơ chế thị trường, đặc biệt khi nền kinh tế Việt Nam đang mở cửa hội nhập quốc tế như hiện nay… Doanh nghiệp Việt Nam Doanh nghiệp Việt Nam đa số là doanh nghiệp nhỏ và vừa, với những lợi thế mạnh về vốn đầu tư, bộ máy quản lý gọn nhẹ, khả năng ứng biến linh hoạt, tiếp cận thị trường nhanh, thu hút, tạo việc làm cho người lao động… Tuy nhiên, loại hình doanh nghiệp này có nhiều hạn chế do việc tồn tại và phát triển tự phát, nhỏ lẻ, thiếu sự liên kết về kinh tế - kỹ thuật; yếu về trình độ quản lý, năng lực tài chính; đặc biệt là hạn chế về hiểu biết và ý thức tuân thủ pháp luật. Để đáp ứng yêu cầu hội nhập, xóa bỏ các rào cản và điều kiện trong buôn bán như cam kết, giảm các hàng rào thuế quan, doanh nghiệp Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn do phải đạt yêu cầu rất cao về chất lượng sản phẩm, lao động, nguyên tắc xuất xứ hàng hóa, an toàn vệ sinh lao động, bảo vệ môi trường… Chúng ta cần có nhiều doanh nghiệp lớn và vừa để liên kết theo chuỗi, theo mạng, kết nối nền kinh tế Việt Nam với kinh tế toàn cầu. Đặc biệt, doanh nghiệp phải tuân thủ pháp luật trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và lao động. Pháp luật liên quan đến doanh nghiệp Doanh nghiệp là một chủ thể có sức ảnh hưởng trong xã hội. Việc thực hiện pháp luật của doanh nghiệp có những tác động rất lớn đến các chủ thể khác và sự phát triển của kinh tế - xã hội. Thực hiện chủ trương "Nhà nước kiến tạo, lấy doanh nghiệp là đối tượng phục vụ, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp đầu tư, kinh doanh, phát triển" để xây dựng ban hành và tổ chức thực hiện những quy định của pháp luật liên quan đến doanh nghiệp. Tuy nhiên, trên thực tế áp dụng pháp luật, doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp cận, do tình trạng phổ biến là các quy định của pháp luật phân tán trong các văn bản. Một văn bản quy phạm pháp luật của cấp trên ban hành, phải kèm theo nhiều văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành của cơ quan có thẩm quyền cấp dưới, đã làm cho hệ thống pháp luật doanh nghiệp trở nên quá đồ sộ. Các cơ quan hành pháp cũng thường xuyên ban hành văn bản để thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước của mình. Ngoài ra, các địa phương cũng có nhiều văn bản liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh... Với nhiều chủ thể có thẩm quyền ban hành, tương ứng với các hình thức văn bản, dẫn đến việc chưa thống nhất, thậm chí là mâu thuẫn, chồng chéo, có cả những khoảng trống các quan hệ xã hội chưa được điều chỉnh. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, có rất nhiều quy phạm pháp luật liên quan điều chỉnh, buộc doanh nghiệp phải biết và tuân theo. Luật sư với doanh nghiệp Người quản lý các doanh nghiệp nhỏ và vừa còn hạn chế về trình độ hiểu biết pháp luật; người làm tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp có kinh nghiệm, trình độ chuyên môn chưa nhiều. Có nhiều vụ việc khi đã xảy ra, doanh nghiệp mới tìm cách giải quyết và thiệt hại lớn là không tránh khỏi. Rất nhiều trường hợp nhầm lẫn, áp dụng sai do không xác định được giá trị hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật… Mặt khác, các quy định pháp luật rất đa dạng, luôn có sự biến động trong điều kiện các quan hệ kinh tế - xã hội ở nước ta đang tiếp tục thay đổi mạnh mẽ. Hệ thống pháp luật phát triển không ngừng, cả về số lượng và chất lượng, các doanh nghiệp không thể tự tìm hiểu được hết, mà cần phải có sự hỗ trợ, giúp đỡ từ phía Nhà nước và những người có chuyên môn, nghiệp vụ như luật sư. Đến nay, mặc dù môi trường kinh doanh đã có những chuyển biến tích cực, nhưng doanh nghiệp vẫn gặp nhiều khó khăn liên quan đến thủ tục hành chính khi giao dịch tại các cơ quan quản lý nhà nước. Việc sử dụng dịch vụ công trực tuyến trong giải quyết thủ tục hành chính hiệu quả còn thấp, do hạ tầng công nghệ chưa đồng bộ, thủ tục hành chính liên thông giữa các sở, ban ngành vẫn còn vướng mắc, do trình độ sử dụng công nghệ thông tin của các doanh nghiệp... Nền kinh tế một quốc gia phụ thuộc vào sự phát triển của các doanh nghiệp. Sự phát triển của doanh nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó việc tuân thủ pháp luật là điều sống còn, chính vì vậy mà dịch vụ pháp lý do luật sư, tổ chức hành nghề luật sư cung cấp là yếu tố đầu vào quan trọng không thể thiếu đối với doanh nghiệp nếu doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển. Cũng như từng cá nhân, doanh nghiệp từ khi ra đời đến khi chấm dứt sự tồn tại, đều cần tới sự hỗ trợ pháp lý. Việc hỗ trợ pháp lý này được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, ở các giai đoạn khác nhau trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, có rất nhiều nội dung liên quan cần được tư vấn như: quản trị, điều hành; thuế, tài chính, ngân hàng; lao động, tiền lương; phần vốn góp, phân chia lợi nhuận; bảo hiểm xã hội; sở hữu trí tuệ; đất đai; hợp đồng mua bán nguyên liệu, sản phẩm, hàng hóa, vận chuyển; giải thể; phá sản… Ở Việt Nam phải trải qua thời kỳ bao cấp do chiến tranh, chúng ta mới có doanh nghiệp vài chục năm trở lại đây. Các doanh nghiệp chưa có thói quen sử dụng sự trợ giúp pháp luật. Đến nay, chính sách kinh tế mới của Nhà nước và quá trình cạnh tranh trong cơ chế thị trường đã tác động tích cực tới tư duy và cách suy nghĩ của các chủ doanh nghiệp về vai trò của pháp luật trong hoạt động kinh doanh. Với các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp của Nhà nước, một số doanh nghiệp vừa đã sử dụng người làm pháp chế của ngành, của bộ chủ quản hoặc của doanh nghiệp. Còn đa số các doanh nghiệp nhỏ và vừa do trình độ nhận thức, do không đủ khả năng tài chính nên chỉ sử dụng hỗ trợ pháp lý qua các vụ việc cụ thể khi đã xảy ra tranh chấp. Lúc này, nếu doanh nghiệp không có sự trợ giúp, tư vấn hoặc tham gia tố tụng của luật sư thì sự việc không thể giải quyết và thiệt hại cho doanh nghiệp là rất lớn. Các hình thức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp Hỗ trợ pháp lý của Nhà nước Trên cơ sở Nghị định số 66/2008/NĐ-CP ngày 28/5/2008 về hỗ trợ pháp lý doanh nghiệp, chúng ta có ''Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành dành cho doanh nghiệp (Chương trình 585)" do Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương và các tổ chức đại diện cho doanh nghiệp thực hiện. Hỗ trợ pháp lý được thực hiện đối với mọi doanh nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu, hình thức tổ chức, quy mô kinh doanh và lĩnh vực hoạt động. Với các nội dung: xây dựng và khai thác các cơ sở dữ liệu pháp luật; giới thiệu, phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật; bồi dưỡng kiến thức pháp luật; giải đáp pháp luật; tiếp nhận kiến nghị của doanh nghiệp; bồi dưỡng kiến thức kinh doanh, nghiệp vụ pháp chế, quản trị… cho người quản lý doanh nghiệp. Qua gần 10 năm triển khai thực hiện Chương trình 585 về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp đã đạt nhiều kết quả. Chương trình hỗ trợ pháp lý giai đoạn từ sau năm 2020 trên cơ sở Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017, Nghị định số 55/2009/NĐ-CP về các nội dung chủ yếu: - Cung cấp thông tin pháp luật trong nước, quốc tế; cảnh báo rủi ro pháp lý và chính sách của ngành, lĩnh vực, địa phương liên quan đến doanh nghiệp nhỏ và vừa. - Bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho người làm công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, mạng lưới tư vấn viên pháp luật. - Tư vấn pháp luật bao gồm đối thoại, giải quyết các vướng mắc pháp lý cho doanh nghiệp và các hoạt động tư vấn pháp luật khác phù hợp với quy định của pháp luật trên cơ sở nhu cầu của doanh nghiệp nhỏ và vừa… Trong những năm thực hiện Chương trình 585, các luật sư đã tích cực tham gia mạng lưới ở khắp các địa phương. Luật sư tham gia có nhiều thuận lợi, họ được trang bị đầy đủ các kiến thức về pháp luật nói chung và pháp luật về doanh nghiệp nói riêng. Các luật sư đều qua đào tạo nghề, nên có kỹ năng trong tư vấn, giải quyết các vấn đề doanh nghiệp cần. Luật sư cũng là đội ngũ tiên phong, thường xuyên theo kịp với các văn bản pháp luật mới ban hành. Sự tham gia tích cực của giới luật sư đã mang lại hiệu quả cao, đáp ứng được phần lớn nhu cầu tư vấn của các doanh nghiệp trên địa bàn cả nước, kể cả vùng sâu vùng xa của Chương trình 585. Hoạt động hỗ trợ pháp lý của luật sư và tổ chức hành nghề luật sư Về cơ chế pháp lý, Pháp lệnh Luật sư năm 1987, 2001 và Luật Luật sư năm 2006 đều có các quy định khuyến khích luật sư và các tổ chức hành nghề luật sư gắn bó với doanh nghiệp, trợ giúp pháp lý cho doanh nghiệp để doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả và đúng pháp luật. Quyết định 123/QĐ-TTg ngày 18/01/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt "Đề án Phát triển đội ngũ luật sư Việt Nam phục vụ hội nhập quốc tế", Luật Luật sư 2012 một lần nữa ghi nhận, luật sư có thể giúp đỡ doanh nghiệp một cách toàn diện, trong tất cả các khâu hoạt động, ở mọi giai đoạn, thông qua các nghiệp vụ về tư vấn, dịch vụ pháp lý, đại diện và tham gia tố tụng. Việc trợ giúp pháp lý của luật sư đối với doanh nghiệp được thực hiện dưới hình thức tư vấn thường xuyên và tư vấn theo vụ việc. Cả hai hình thức này có thể được các bên sử dụng đồng thời hoặc tách biệt và có thể gắn với quá trình tố tụng tùy theo hợp đồng dịch vụ pháp lý. Trên thực tế, các luật sư và tổ chức hành nghề luật sư nếu xác lập quan hệ tư vấn thường xuyên cho doanh nghiệp thì năng lực hành nghề, chất lượng tư vấn sẽ cao hơn bởi họ luôn được cập nhật các thông tin của doanh nghiệp. Tư vấn theo vụ việc, luật sư chỉ xuất hiện khi doanh nghiệp gặp vụ việc cụ thể mà doanh nghiệp thấy cần có luật sư. Có thể nói, công việc hàng ngày của doanh nghiệp đều gắn với pháp luật và rất đa dạng. Luật sư sẽ cung cấp kịp thời các dịch vụ ngay từ khi thành lập doanh nghiệp; xin cấp con dấu; mã số thuế; soạn thảo điều lệ, quy chế quản lý nội bộ; soạn thảo hợp đồng, giao kết dân sự, kinh tế với các đối tác… và luật sư có thể thương lượng, hòa giải, tham gia tố tụng khi doanh nghiệp đã khẳng định vị trí trên thương trường… Mặt khác, luật sư còn tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, lao động, hành chính, kinh tế, dân sự. Người đứng đầu pháp nhân có thể trở thành bị can, bị cáo trong vụ án hình sự nếu thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật hình sự. Trong tố tụng hình sự, bị can, bị cáo được quyền mời luật sư bào chữa từ khi người đó bị khởi tố bị can tới khi vụ án được giải quyết ở các cấp giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Trong quá trình sản xuất kinh doanh xuất hiện nhiều mối quan hệ giữa doanh nghiệp, người đứng đầu doanh nghiệp với các cá nhân và pháp nhân khác. Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chỉ diễn ra bình thường và phát triển khi các mối quan hệ được giải quyết tốt thông qua thương lượng, hòa giải, không phải đưa nhau ra tòa án hoặc cơ quan trọng tài. Mọi tranh chấp doanh nghiệp gặp phải, cần được giải quyết đúng luật, mới bảo đảm cho tính ổn định để doanh nghiệp phát triển. Khi có luật sư thì người đứng đầu doanh nghiệp hoàn toàn yên tâm và sẽ tập trung cho công tác quản trị, hoạch định chiến lược kinh doanh, có điều kiện hơn trong việc mở rộng lĩnh vực đầu tư và phạm vi, đối tượng khách hàng. Trong thời hội nhập doanh nghiệp còn có cơ hội làm ăn với các doanh nghiệp nước ngoài, không chỉ đòi hỏi doanh nghiệp có tiềm lực tài chính mà còn đòi hỏi rất cao việc tuân thủ pháp luật kinh doanh của các bên. Đây là sân chơi bình đẳng với tính cạnh tranh khốc liệt, đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự điều chỉnh nâng cao nội lực về mọi mặt mới đáp ứng được yêu cầu. Một số kiến nghị, đề xuất Việc xây dựng trang thông tin điện tử về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp là rất cần thiết và có ý nghĩa quan trọng, cần phải có một chuyên trang riêng biệt về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Nâng cao chất lượng sử dụng dịch vụ công trực tuyến trong giải quyết thủ tục hành chính, sử dụng thuận lợi, hướng dẫn các chế độ chính sách liên quan chính xác, kịp thời cho doanh nghiệp và người dân. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho doanh nghiệp, tổ chức các hoạt động dưới nhiều hình thức nhằm tuyên truyền, khuyến cáo doanh nghiệp thực thi đúng pháp luật. Hỗ trợ pháp lý doanh nghiệp thông qua các kênh dẫn pháp luật thâm nhập vào doanh nghiệp. Những kênh quan trọng nhất là các tổ chức tư vấn, dịch vụ pháp lý và lực lượng pháp chế doanh nghiệp. Nhà nước cần dành một nguồn lực đáng kể nhằm phát triển năng lực luật sư phục vụ cho hỗ trợ pháp lý doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có trách nhiệm chủ động tìm hiểu pháp luật, bố trí cán bộ phụ trách công tác pháp chế doanh nghiệp hoặc thuê luật sư tư vấn để giúp doanh nghiệp thực thi pháp luật. Tuy nhiên, đội ngũ luật sư tư vấn doanh nghiệp hiện nay còn yếu và thiếu, chưa đủ khả năng đáp ứng được yêu cầu. Vì vậy, rất cần việc xây dựng và phát triển lực lượng luật sư có vai trò then chốt, làm cầu nối giữa kinh doanh và pháp luật. Cùng với doanh nghiệp, nghề luật sư ở Việt Nam đang trên đà phát triển. Thực tế đã xuất hiện ngày càng nhiều sự gắn bó doanh nghiệp với luật sư, quan hệ này ngày càng bền chặt và thành công. Sau hơn 30 năm đổi mới, môi trường, cơ chế pháp luật ngày càng đầy đủ, hoàn thiện tạo ra cơ sở pháp lý cần thiết để doanh nghiệp phát triển, đồng thời nó đã khẳng định vai trò của giới luật sư trong hoạt động hỗ trợ pháp lý doanh nghiệp. Doanh nghiệp và luật sư đến với nhau là một tất yếu khách quan trong cơ chế thị trường, đặc biệt khi nền kinh tế Việt Nam đang mở cửa hội nhập quốc tế hiện nay. Kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn về mọi mặt, góp phần tích cực vào công cuộc bảo vệ và xây dựng Tổ quốc; không ngừng nâng cao đời sống về vật chất và tinh thần cho nhân dân. Thành tựu này có sự đóng góp đặc biệt quan trọng của doanh nghiệp, giới luật sư. Hiện nay chúng ta có 714.000 doanh nghiệp đang hoạt động và 5,2 triệu hộ kinh doanh. Những năm gần đây, với tinh thần chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ đã nhen lên niềm tin phấn khởi trong cộng đồng doanh nghiệp. Chưa bao giờ doanh nghiệp Việt Nam lại có cơ hội như ngày nay, chúng ta đang phấn đấu để đến năm 2020 đạt con số 1 triệu doanh nghiệp. Mặc dù còn rất nhiều khó khăn, thử thách phía trước, song cộng đồng doanh nghiệp, giới luật sư luôn tin tưởng vào đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong nỗ lực cải cách thể chế pháp luật, hoàn thiện môi trường kinh doanh; phấn đấu tự nâng cấp mình, vươn tới những chuẩn mực theo yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, cùng đồng hành trên con đường xây dựng và phát triển đất nước./. Nguồn: Tạp chí Luật sư Việt Nam số 11 (tháng 11/2019) – Chuyên trang về hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa | False | Trần Thị Kim Yến | | Tạo bước chuyển biến mới trong hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa | Thông tin | Tin | Tạo bước chuyển biến mới trong hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa | /Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg | | 1/9/2020 3:00 PM | No | Đã ban hành | | Đã hơn 10 năm kể từ khi Chính phủ ban hành Nghị định số 66/2008/NĐ-CP ngày 28/5/2008 về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, việc thực hiện các hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp đã có nhiều điểm tích cực. Bộ Tư pháp đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 585/QĐTTg ngày 05/5/2010 phê duyệt Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành dành cho doanh nghiệp giai đoạn 2010-2014. Trên cơ sở kết quả đạt được giai đoạn 2010-2014, Bộ Tư pháp đã tổng kết và đề xuất Thủ tướng Chính phủ tiếp tục triển khai các hoạt động của Chương trình giai đoạn tiếp theo và ngày 28/11/2014, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2139/QĐ-TTg về việc tiếp tục thực hiện và điều chỉnh các dự án Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành dành cho doanh nghiệp giai đoạn 2010-2014, thực hiện giai đoạn 2015-2020. Tính đến hết năm 2018, hầu hết các bộ và cơ quan ngang bộ (17/22) đã ban hành các kế hoạch/chương trình và thực hiện nhiệm vụ triển khai công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trong phạm vi ngành, lĩnh vực do mình quản lý theo quy định của Nghị định số 66/2008/NĐ-CP (trừ Bộ Nội vụ, Bộ Ngoại giao, Ủy ban Dân tộc, Thanh tra Chính phủ, Văn phòng Chính phủ không trực tiếp triển khai công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp). Nhiều bộ, ngành đã sớm kịp thời ban hành các kế hoạch/chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trong lĩnh vực bộ, ngành mình quản lý ngay sau khi có Nghị định số 66/2008/NĐ-CP để thúc đẩy công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, như Bộ Tài chính, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Công thương, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Quốc phòng, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã ban hành kế hoạch/chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh, thành phố nhằm triển khai các hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp tại các địa phương theo quy định tại Nghị định số 66/2008/NĐ-CP. Trên cơ sở quy định của Nghị định số 66/2008/NĐ-CP, nhiều địa phương đã triển khai mạnh, tích cực công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp thông qua việc xây dựng các đề án, đề tài và ban hành kế hoạch/chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp tại địa phương như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, TP. Đà Nẵng, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc, Bắc Giang… Ngoài ra, một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương còn ban hành các nghị quyết, văn bản quy định về định mức chi của địa phương dành cho công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trên địa bàn. Việc các bộ, ngành và địa phương ban hành các văn bản/chương trình/kế hoạch triển khai công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp căn cứ vào Nghị định số 66/2008/NĐ-CP bước đầu đã tạo một "cú hích" trong công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, tạo khung pháp lý ban đầu cho hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp ở các bộ, ngành, địa phương và các tổ chức đại diện cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp thời gian qua vẫn còn những khó khăn, tồn tại hạn chế, cụ thể: việc bố trí cơ cấu, tổ chức trong cơ quan nhà nước để làm công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp chưa đồng bộ, ổn định, thiếu cán bộ chuyên trách; việc bố trí kinh phí để triển khai hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn, chưa huy động được nguồn lực xã hội tham gia; một số hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp triển khai còn dàn trải, chưa nắm bắt đúng nhu cầu của doanh nghiệp; chưa ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin vào hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp; chưa có chương trình hỗ trợ pháp lý dành riêng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, chưa xác định đối tượng cần ưu tiên hỗ trợ. Kế thừa những thành tích của công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp giai đoạn 2008-2018, đồng thời đáp ứng yêu cầu của công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trong tình hình mới, khi Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa có hiệu lực, trên cơ sở quan điểm, nguyên tắc hỗ trợ doanh nghiệp nói chung, đồng thời cụ thể hóa Điều 14 của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, Bộ Tư pháp đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 55/2019/NĐ-CP về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nhìn từ thực tiễn tham gia hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trong thời gian qua và quá trình chủ trì xây dựng Nghị định số 55/2019/NĐCP về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, chúng tôi nhận thấy có nhiều điểm mới, tích cực, nếu được nhận thức, thực hiện, chấp hành một cách nghiêm túc, có thể tạo ra bước chuyển mới, tích cực nhằm nâng cao nhận thức pháp luật của doanh nghiệp, đáp ứng yêu cầu hội nhập và cạnh tranh của nền kinh tế. Thứ nhất: Tập trung đối tượng thụ hưởng chính sách hỗ trợ là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, mục tiêu của Nghị định số 55/2019/NĐ-CP là quy định chi tiết khoản 3 Điều 14 Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, một số đối tượng khác không phải là doanh nghiệp nhỏ và vừa nhưng cũng đã và đang được hỗ trợ pháp lý theo Nghị định số 66/2008/NĐ-CP (như hộ kinh doanh cá thể, hợp tác xã, doanh nghiệp lớn, tập đoàn, tổng công ty nhà nước). Các đối tượng này cũng cần được hỗ trợ pháp lý, nhưng phụ thuộc vào nguồn lực của bộ, cơ quan ngang bộ và chính quyền địa phương. Do đó, Điều 19 Nghị định số 55/2019/NĐCP đã quy định: "Tùy thuộc vào nguồn lực, các bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương cấp tỉnh, tổ chức đại diện cho doanh nghiệp có thể quyết định áp dụng các quy định về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa để hỗ trợ pháp lý cho tổ chức, cá nhân kinh doanh không phải là doanh nghiệp nhỏ và vừa". Như vậy, Nghị định số 55/2019/NĐ-CP đã thu hẹp phạm vi thụ hưởng chính sách hỗ trợ pháp lý, điều này sẽ góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, đưa hoạt động hỗ trợ pháp lý này đi vào thực chất, hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa. Thứ hai: Cấu trúc lại nội dung và hình thức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, so với Nghị định số 66/2008/NĐ-CP, quy định về 05 hình thức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, Nghị định số 55/2019/NĐCP cấu trúc lại các hình thức và nội dung hỗ trợ pháp lý theo hướng các hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa gồm 2 nhóm: (i) Nhóm hoạt động xây dựng, quản lý, duy trì, cập nhật, khai thác và sử dụng cơ sở dữ liệu về pháp luật (từ Điều 5 đến Điều 9); (ii) Nhóm hoạt động xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (Điều 10 đến Điều 13). Điểm mới là tại nhóm 1, cơ sở dữ liệu sẽ bao gồm cả các tài liệu tham khảo về vụ việc vướng mắc pháp lý đã xảy ra, các bản án, quyết định của tòa án, các văn bản trả lời của cơ quan nhà nước đối với vướng mắc pháp lý của doanh nghiệp, các văn bản tư vấn pháp luật của mạng lưới tư vấn viên pháp luật… (được phép công khai); Nhà nước hỗ trợ chi phí tư vấn pháp luật cho các hoạt động thuộc nhóm 1 nhưng không quá từ 03 đến 10 triệu đồng/năm, tùy theo quy mô đối tượng doanh nghiệp. Trong nhóm 2, quy định thời hạn thực hiện các chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (như cung cấp thông tin, đào tạo tập huấn, giải quyết vướng mắc pháp lý,...) tối đa 05 năm kể từ ngày được phê duyệt. Các chương trình được thực hiện trên cơ sở phối hợp giữa cơ quan nhà nước với tổ chức đại diện của doanh nghiệp nhỏ và vừa; tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ hỗ trợ pháp lý cho DNNVV và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan. Kinh phí hỗ trợ của Nhà nước cho nhóm 2 tối đa không quá 50% kinh phí thực hiện chương trình, phần còn lại do tổ chức đại diện cho doanh nghiệp tự chi trả hoặc từ nguồn xã hội hóa. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng việc lựa chọn, ký hợp đồng, đánh giá kết quả thực hiện và thanh lý hợp đồng với tổ chức đại diện cho doanh nghiệp nhỏ và vừa như vậy phải được thực hiện theo quy định của pháp luật đấu thầu và pháp luật có liên quan. Bên cạnh đó, các chương trình hỗ trợ pháp lý của Nghị định số 55/2019/NĐ-CP có thể lồng ghép với những chương trình hỗ trợ khác như đề án hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa của bộ, cơ quan ngang bộ theo Nghị định số 39/2018/NĐ-CP. Thứ ba: Về bảo đảm về nguồn lực, Nghị định số 55/2019/NĐ-CP đã quy định cụ thể trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương cấp tỉnh trong việc bảo đảm nguồn nhân lực, tài chính cho công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Cụ thể, kinh phí cho hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa do ngân sách nhà nước bảo đảm, được bố trí trong dự toán chi thường xuyên ngân sách nhà nước hàng năm trên cơ sở kế hoạch triển khai hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa của bộ, cơ quan ngang bộ, ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước. Đặc biệt, Nghị định số 55/2019/NĐCP đã quy định cụ thể hội đồng nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm ban hành chính sách về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tại địa phương; bảo đảm nguồn kinh phí từ ngân sách địa phương để thực hiện hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Thứ tư: Trách nhiệm tổ chức thực hiện, Nghị định số 55/2019/NĐ-CP đã quy định cụ thể trách nhiệm của Bộ Tư pháp, các bộ, cơ quan ngang bộ, hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, đồng thời quy định trách nhiệm của tổ chức đại diện cho doanh nghiệp có thể đề xuất chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa do mình chủ trì thực hiện theo đúng nội dung chương trình hỗ trợ, pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định tại Nghị định, trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Thứ năm: Tạo điều kiện để luật sư, luật gia tham gia vào mạng lưới tư vấn viên pháp luật cho doanh nghiệp, căn cứ vào Nghị định số 39/2018/NĐ-CP ngày 10/3/2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (Điều 13) đã quy định chi tiết khoản 2 Điều 14 Luật này về trách nhiệm "các bộ, cơ quan ngang bộ, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, xây dựng mạng lưới tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ tư vấn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa...". Nghị định số 55/2019/NĐ-CP (Điều 9) không quy định lại nội dung về điều kiện tiêu chí, thủ tục công nhận tư vấn viên mà chỉ tập trung quy định việc xây dựng, quản lý, duy trì, cập nhật dữ liệu về văn bản tư vấn pháp luật của mạng lưới tư vấn viên pháp luật và định mức thanh toán phí sử dụng dịch vụ thông qua tư vấn viên pháp luật, Cụ thể, doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận mạng lưới tư vấn viên pháp luật theo lĩnh vực quản lý của bộ, cơ quan ngang bộ thông qua danh sách tư vấn viên pháp luật được đăng tải trên cổng thông tin của bộ, cơ quan ngang bộ đó. Sau khi thỏa thuận dịch vụ tư vấn pháp luật với tư vấn viên pháp luật phù hợp thuộc mạng lưới tư vấn viên pháp luật, doanh nghiệp nhỏ và vừa gửi hồ sơ trực tiếp hoặc qua dịch vụ bưu chính hoặc bằng phương thức điện tử đến bộ, cơ quan ngang bộ đề nghị hỗ trợ chi phí tư vấn pháp luật về vụ việc, vướng mắc pháp lý. Luật sư, tổ chức hành nghề luật sư, tư vấn viên pháp luật, trung tâm tư vấn pháp luật đủ điều kiện hành nghề tư vấn pháp luật theo quy định của pháp luật, tự nguyện thông báo tham gia và được bộ, cơ quan ngang bộ công bố công khai để hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa./. Nguồn: Tạp chí Luật sư Việt Nam số 11 (tháng 11/2019) – Chuyên trang về hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa | False | Trần Thị Kim Yến | | Hỗ trợ pháp lý cho các doanh nghiệp khởi ngiệp hiện nay: thực trạng và giải pháp | Thông tin | Tin | Hỗ trợ pháp lý cho các doanh nghiệp khởi ngiệp hiện nay: thực trạng và giải pháp | /Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg | | 1/9/2020 3:00 PM | No | Đã ban hành | | Thực trạng hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp khởi nghiệp hiện nay Tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp Với mục tiêu tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận chính sách, thông tin pháp lý và nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành, tuân thủ pháp luật, các bộ, sở, ngành đã biên soạn các tài liệu và chương trình để phổ biến các quy định của pháp luật. Công tác tuyên truyền, phổ biến được thực hiện dưới nhiều hình thức đa dạng, thiết thực, phù hợp với điều kiện thực tế của từng địa bàn, từng nhóm đối tượng khác nhau. Nội dung tuyên truyền tập trung vào các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp, như pháp luật về đầu tư, bảo hiểm xã hội, lao động, thuế… Đặc biệt, Chương trình 585 (Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành dành cho doanh nghiệp theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ) đã xây dựng, phát sóng hàng tuần chuyên đề "Kinh doanh và pháp luật" trên Đài Tiếng nói Việt Nam (kênh VOV) và Đài Truyền hình Việt Nam (kênh VTV2), trong đó chú trọng việc tuyên truyền những thay đổi của pháp luật kinh doanh hiện hành, phân tích tác động của sự thay đổi pháp luật đó đối với hoạt động của doanh nghiệp. Chương trình đã cung cấp thực tiễn pháp lý trong kinh doanh (dưới hình thức phóng sự, phân tích của chuyên gia), những vướng mắc pháp lý doanh nghiệp thường gặp, cảnh báo những rủi ro pháp lý khi doanh nghiệp không tuân thủ các quy định pháp luật, từ đó đề xuất các giải pháp tháo gỡ vướng mắc cho doanh nghiệp. Đây là Chương trình phổ biến pháp luật kinh doanh dành cho doanh nghiệp đầu tiên được phát sóng định kỳ hàng tuần trên Đài Truyền hình Việt Nam, định kỳ hàng ngày trên Đài Tiếng nói Việt Nam với phạm vi phủ sóng toàn quốc trong một khung thời gian phù hợp, điều này đã có tác động tích cực, góp phần quan trọng nâng cao nhận thức và thói quen tuân thủ, áp dụng pháp luật của người quản lý doanh nghiệp. Chương trình 585 đã phối hợp với Cục Công nghệ thông tin, Bộ Tư pháp xây dựng và đưa vào vận hành chuyên mục trang tin hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trên Cổng Thông tin của Bộ Tư pháp với các nội dung chính: cơ sở dữ liệu VBQPPL về lĩnh vực kinh doanh cho doanh nghiệp; diễn đàn pháp luật kinh doanh để trao đổi về các lĩnh vực chuyên môn, kinh nghiệm thực tiễn liên quan tới pháp luật kinh doanh; hỗ trợ pháp luật trực tuyến: sử dụng các công cụ như hotline, qua các công cụ chat trực tuyến (skype, yahoo, MSN, Gtalk, …), xây dựng hệ thống trả lời email tự động; tích hợp với cơ sở dữ liệu hỏi đáp của Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp và các bộ, ngành khác có liên quan (các tổ chức đại diện doanh nghiệp, văn phòng luật sư, công ty luật,…). Nội dung hoạt động của các chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành dành cho doanh nghiệp gồm: bản tin hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, hoạt động tổ chức bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ cho cán bộ pháp chế doanh nghiệp, hội nghị đối thoại với doanh nghiệp về các vấn đề pháp lý liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, thiết lập mạng lưới tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại các địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn, hoạt động tổ chức bồi dưỡng kiến thức pháp luật kinh doanh cho doanh nghiệp... Ngoài ra, nhằm thực hiện công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp khởi nghiệp, các địa phương cũng tiến hành rà soát, cập nhật các văn bản quy phạm pháp luật quy định về vấn đề này và đăng công khai trên các phương tiện đại chúng để các doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận. Một số địa phương đã xây dựng và ban hành Hệ dữ liệu văn bản quy phạm pháp luật do HĐND, UBND tỉnh ban hành theo thẩm quyền liên quan đến doanh nghiệp khởi nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp - thương mại, thông tin - truyền thông và xây dựng. Bình Phước phát hành 1.000 cuốn sách Cẩm nang hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp 2017 cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Cục Thuế TP. Hồ Chí Minh vừa khai trương "Chương trình hỗ trợ thông tin về thuế cho doanh nghiệp khởi nghiệp". Hội đồng nhân dân TP. Hồ Chí Minh và Đài Tiếng nói nhân dân TP. Hồ Chí Minh phối hợp thực hiện chương trình phát thanh trực tiếp "Đối thoại cùng chính quyền thành phố" với chủ đề "Hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp". Hoạt động bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho doanh nghiệp Các chuyên đề bồi dưỡng kiến thức pháp luật kinh doanh cho doanh nghiệp chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực pháp luật liên quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh như: pháp luật về quản trị doanh nghiệp, hợp đồng, lao động và bảo hiểm xã hội, pháp luật về thuế, kế toán, pháp luật về cạnh tranh, sở hữu trí tuệ, pháp luật về kinh doanh bất động sản, đầu tư, các quy định mới của Bộ luật Dân sự 2015, Luật Doanh nghiệp 2015, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng…, các quy định về Hiệp định Thương mại đối tác xuyên Thái Bình Dương TTP, Hiệp định tự do thương mại FTA. Ngoài ra, các địa phương còn tổ chức các lớp bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ cho cán bộ pháp chế doanh nghiệp, góp phần tăng cường năng lực chuyên môn cho đội ngũ này trong triển khai thực hiện nhiệm vụ, giúp doanh nghiệp có đội ngũ tư vấn pháp luật, cố vấn pháp lý có thêm những kiến thức về chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ, bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ được lãnh đạo doanh nghiệp giao. Bên cạnh đó, còn bồi dưỡng các kỹ năng như: phổ biến, tuyên truyền pháp luật; tư vấn pháp luật; soạn thảo, đàm phán, ký kết hợp đồng trong kinh doanh; giải quyết tranh chấp trong kinh doanh. Về công tác tư vấn pháp luật Tổ chức, điều hành, quản lý hoạt động của mạng lưới tư vấn pháp luật được chia theo 03 cấp: ban quản lý chương trình; cơ quan, tổ chức được giao trách nhiệm đầu mối đại diện tại các địa phương; đội ngũ luật sư, luật gia, tư vấn viên pháp luật, cộng tác viên tư vấn pháp luật, cán bộ thực hiện công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp để trực tiếp triển khai các hoạt động của mạng lưới. Thông qua các hình thức: giải đáp bằng văn bản, giải đáp thông qua mạng điện tử, giải đáp trực tiếp, điện thoại, các doanh nghiệp đã được tư vấn, cung cấp ý kiến pháp lý để kịp thời tháo gỡ vướng mắc, khó khăn trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, qua đó, tạo sự chuyển biến về nhận thức, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật đối với doanh nghiệp tại các địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn, góp phần thúc đẩy sản xuất, ổn định xã hội, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh doanh tại Việt Nam. Công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp khởi nghiệp còn được các sở, ban, ngành thực hiện thông qua nhiều hình thức như tư vấn trực tiếp qua điện thoại, tư vấn tại các tổ chức hành nghề công chứng và tổ chức hành nghề luật sư, qua mục hỏi - đáp tại các trang thông tin của các đơn vị. Đặc biệt, nhiều địa phương đã chỉ đạo các sở, ban, ngành, lĩnh vực quản lý có liên quan tổ chức giải đáp pháp luật cho doanh nghiệp, lồng ghép việc tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp khởi nghiệp thông qua chuỗi các hoạt động kỷ niệm Ngày truyền thống Luật sư Việt Nam (10/10), Ngày Pháp luật Việt Nam (09/11). Một kênh rất quan trọng trong việc hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp hiện nay là các tổ chức, liên minh, các văn phòng luật sư, công chứng. Ví dụ: Startup Now là tổ chức nửa phi lợi nhuận giúp hỗ trợ khởi nghiệp thuộc Công ty CP Ươm tạo doanh nghiệp công nghệ nông lâm - thành viên Trung tâm Ươm tạo doanh nghiệp Đại học Nông lâm TP. Hồ Chí Minh; Saigon Innovation Hub - hỗ trợ không gian làm việc miễn phí cho startups (SIHUB) hướng đến mục tiêu trở thành hình mẫu về quản lý và vận hành vườn ươm cho các vườn ươm hiện hữu, cung cấp các hỗ trợ theo chuẩn quốc tế cho cộng đồng khởi nghiệp tại Việt Nam, cũng như kết nối các thành phần trong hệ sinh thái khởi nghiệp ở TP. Hồ Chí Minh; SIHUB, AN LUAT LAW FIRM & Angels 4 Us tài trợ hoàn toàn miễn phí đào tạo kiến thức pháp lý trong khởi nghiệp (trong đó có phần chuyên sâu về sở hữu trí tuệ. Sihub cũng đã ký kết thỏa thuận hợp tác MOU với Công ty cổ phần Giải pháp liên minh luật Việt Nam (FLF) để cùng hỗ trợ các startup khởi nghiệp vững vàng và dễ dàng hơn… Tổ chức hội thảo, tọa đàm, hội nghị đối thoại về các chuyên đề pháp luật cho doanh nghiệp khởi nghiệp Chương trình 585 đã giao các đơn vị là các sở, ban ngành, các tổ chức đại diện cho doanh nghiệp tổ chức thành công các hội thảo, tọa đàm, diễn đàn về các chuyên đề pháp luật kinh doanh, thu hút sự tham gia của hàng nghìn lượt đại biểu (trung bình 90 đến 120 đại biểu/01 tọa đàm). Đối tượng tham gia là các chủ sở hữu doanh nghiệp, cán bộ thực hiện công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, luật sư, luật gia, cố vấn pháp lý tại các doanh nghiệp. Nội dung các tọa đàm tập trung chủ yếu vào việc góp ý xây dựng, hoàn thiện các dự thảo luật, các chính sách liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia, đồng thời nêu những khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp trong quá trình thực thi, áp dụng các quy định pháp luật. Thông qua hoạt động này, các doanh nghiệp đã được kịp thời tiếp cận thông tin, cập nhật các chính sách, văn bản, các vấn đề pháp lý mang tính thời sự, kiến thức pháp luật kinh doanh, đồng thời được trao đổi kinh nghiệm thực tiễn với các nhà quản lý, chuyên gia, góp phần phòng tránh rủi ro pháp lý, hoạch định các chiến lược đầu tư, kinh doanh phù hợp, nâng cao năng lực cạnh tranh, hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Mặt khác, hoạt động này cũng đã thiết lập được diễn đàn trao đổi đa chiều, tạo điều kiện để cơ quan quản lý nhà nước lắng nghe, tiếp thu ý kiến phản hồi từ phía doanh nghiệp, qua đó, có những đề xuất, kiến nghị để hoàn thiện chính sách, khắc phục những lỗ hổng trong hệ thống pháp luật kinh doanh của Việt Nam. Ban Quản lý Chương trình 585 phối hợp Vụ Pháp luật dân sự - kinh tế, Bộ Tư pháp tổ chức "Tọa đàm trao đổi về điều kiện đầu tư, kinh doanh trong Luật Đầu tư năm 2014, Luật sửa đổi, bổ sung Điều 6 và Phụ lục 04 về danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện của Luật Đầu tư và các luật chuyên ngành"; Hội nghị đối thoại "Đánh giá, trao đổi nhu cầu và mô hình hoạt động mạng lưới tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại các địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn". Bộ Tư pháp phối hợp với Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (Dự án JICA) tại Việt Nam tổ chức Tọa đàm "Đánh giá thực trạng, nhu cầu hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp tại các Bộ, ngành, địa phương và các tổ chức đại diện cho doanh nghiệp" với mục đích rà soát, đánh giá những kết quả đạt được, những hạn chế, khó khăn và xác định nhu cầu hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp của các bộ, ngành, địa phương và các tổ chức đại diện cho doanh nghiệp trên phạm vi cả nước để hoàn thiện các quy định pháp luật về công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp và chuẩn bị cho việc triển khai chế định hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa được quy định tại khoản 3 Điều 14 Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017. Hạn chế, nguyên nhân và giải pháp Hạn chế và nguyên nhân Khái niệm "doanh nghiệp khởi nghiệp" mặc dù được sử dụng khá phổ biến trong xã hội nhưng chưa được giải thích, quy định, hướng dẫn trong các văn bản pháp luật hiện hành dẫn đến nhận thức về khái niệm này chưa thống nhất. Hiện nay cũng chưa có văn bản nào quy định riêng về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp khởi nghiệp, mà chủ yếu triển khai theo Nghị định 66/2008/NĐ-CP về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nói chung. Do vậy, công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp khởi nghiệp thường được tổ chức theo hình thức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nói chung và nội dung chưa có trọng tâm, trọng điểm, chưa thực sự bám sát nhu cầu của các doanh nghiệp khởi nghiệp. Công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp còn rất nhiều bất cập như việc triển khai Nghị định 66/2008/NĐ-CP còn mang tính hình thức, có sự trùng lặp các hoạt động hỗ trợ pháp lý giữa các bộ với nhau, giữa các đơn vị trong cùng một bộ; kinh phí còn dàn trải, chưa tập trung. Đáng chú ý, mặc dù thuộc top 5 trong số 30 chương trình hỗ trợ cho doanh nghiệp nhưng hiệu quả của công tác hỗ trợ pháp lý cũng chỉ được doanh nghiệp "chấm điểm" đạt mức khá và trung bình… Nhận thức về vai trò, ý nghĩa của pháp luật trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của nhiều chủ sở hữu, người quản lý doanh nghiệp còn hạn chế. Tình trạng doanh nghiệp không chú ý tới việc tìm hiểu và thực hiện pháp luật là khá phổ biến. Nhiều doanh nghiệp chưa quan tâm đến việc cập nhật kiến thức pháp luật kinh doanh, coi nhẹ yếu tố pháp lý trong kinh doanh nên không dành thời gian cho cán bộ đi tham gia các chương trình bồi dưỡng. Một lý do lớn nhất mà các doanh nghiệp không tham gia các lớp bồi bưỡng là họ thường không lo phòng tránh rủi ro trong kinh doanh mà có quan điểm là chỉ đến khi sự việc pháp lý xảy ra sẽ thuê luật sư hoặc nhờ vả các mối quan hệ để giải quyết vụ việc. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp vẫn chưa biết cách khai thác hiệu quả các thông tin pháp luật vì hiện tại hệ thống pháp luật của chúng ta, đặc biệt pháp luật về kinh tế, thương mại vừa nhiều, vừa chồng chéo và bất cập. Mặt khác, các cơ quan quản lý nhà nước dù có sự quan tâm đến doanh nghiệp nhưng vẫn còn nhiều khó khăn trong phương thức để phổ biến, hướng dẫn, tổ chức thi hành pháp luật cho doanh nghiệp; nhiều thắc mắc của doanh nghiệp về nội dung các quy định của pháp luật và việc áp dụng pháp luật chưa được các cơ quan nhà nước có trách nhiệm giải đáp kịp thời, khiến cho việc thực thi pháp luật của doanh nghiệp càng gặp nhiều khó khăn hơn. Nguyên nhân chính của tình trạng này là ý thức pháp luật, văn hóa pháp lý của nhiều người quản lý doanh nghiệp còn hạn chế. Nhiều doanh nghiệp còn khó khăn về nguồn lực để tiếp cận với thông tin pháp lý và tư vấn pháp luật, hoạt động hỗ trợ của các hiệp hội doanh nghiệp còn nhiều bất cập, chồng chéo, thiếu hiệu quả; các cơ quan quản lý nhà nước chưa thi hành tốt nhiệm vụ của mình trong việc tổ chức triển khai thực hiện pháp luật cho doanh nghiệp, nhiều văn bản được ban hành cùng thời điểm nhưng không nhất quán, chồng chéo cũng gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp. Chất lượng thông tin mà doanh nghiệp có được chưa đầy đủ, kịp thời và độ tin cậy chưa cao. Đa số các trang thông tin cho doanh nghiệp cung cấp các thông tin chung chung, lạc hậu, thiếu các thông tin phục vụ thiết thực cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp… Giải pháp Nhà nước cần quan tâm đẩy mạnh hơn các hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp khởi nghiệp trong thời gian tới. Cụ thể như: Triển khai thực hiện tốt Nghị định số 55/2019/NĐ-CP của Chính phủ về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa để bảo đảm khung pháp lý cho doanh nghiệp hoạt động và cơ chế hỗ trợ cho doanh nghiệp từ phía Nhà nước, đặc biệt hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo… Nâng cao năng lực, đào tạo nguồn nhân lực thực hiện hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp tại các sở, ban, ngành, tổ chức đại diện cho doanh nghiệp tại các địa phương để thực hiện tốt nhiệm vụ hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp; biên soạn các bản tin, sổ tay, tài liệu về hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp; xây dựng tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả của hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp; hỗ trợ báo cáo viên, hỗ trợ công tác tổ chức hội nghị, tọa đàm, trao đổi kinh nghiệm, các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ, kỹ năng cho các cơ quan, tổ chức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhằm nâng cao năng lực cho cơ quan, tổ chức làm công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp tại một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các tổ chức đại diện cho doanh nghiệp. Nâng cao chất lượng hoạt động thông tin pháp lý cho doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận thông tin pháp lý trong hoạt động đầu tư, kinh doanh và hội nhập, nhất là hệ thống pháp luật về đầu tư, kinh doanh trong nước và các cam kết quốc tế tác động trực tiếp đến doanh nghiệp nhằm nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành, tuân thủ pháp luật, chủ động hội nhập quốc tế của doanh nghiệp thông qua hoạt động. Tích hợp Trang thông tin điện tử chính thức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp do Chương trình 585 chủ trì với Cổng thông tin quốc gia về hỗ trợ doanh nghiệp nhằm cung cấp đầy đủ, kịp thời, toàn diện thông tin pháp lý có liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tăng cường hỗ trợ pháp lý trực tiếp cho doanh nghiệp trên một số hoạt động cụ thể. Các bộ cần có các hoạt động tư vấn, giải đáp pháp luật cho doanh nghiệp bằng nhiều hình thức: bằng văn bản, qua mạng điện tử, điện thoại, trong đó quy định thời hạn tư vấn cụ thể, phân cấp thẩm quyền thực hiện tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp nhỏ và vừa một cách cụ thể để cơ quan chức năng và doanh nghiệp dễ thực hiện. Bồi dưỡng kiến thức pháp luật kinh doanh mới cho doanh nghiệp; bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ, kiến thức pháp luật cho cán bộ pháp chế các doanh nghiệp. Cần xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, tổ chức đại diện doanh nghiệp và các đoàn luật sư, Liên đoàn Luật sư để cử ra các luật sư có nhiều kinh nghiệm tư vấn doanh nghiệp khởi nghiệp, trợ giúp họ trong các tình huống cụ thể và tổ chức đào tạo, giới thiệu các văn bản pháp luật mới. Triển khai hoạt động thiết lập mạng lưới tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp, ưu tiên các địa phương có địa bàn kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn theo hướng có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào các hình thức tư vấn trực tiếp mang lại hiệu quả cao, thiết thực cho doanh nghiệp. Ưu tiên hỗ trợ nguồn lực để xây dựng các đầu mối thực hiện mạng lưới cộng tác viên tư vấn pháp luật, bao gồm: xây dựng kế hoạch và tổ chức vận động luật gia, luật sư, tư vấn viên pháp luật và cộng tác viên tư vấn pháp luật tham gia mạng lưới; tổ chức và duy trì hoạt động của mạng lưới; tập huấn bồi dưỡng cộng tác viên tham gia mạng lưới. Về phía các doanh nghiệp: cần quan tâm hơn nữa đến công tác pháp chế; củng cố kiện toàn tổ chức pháp chế, đội ngũ cán bộ pháp chế của doanh nghiệp; cần chủ động tìm hiểu pháp luật, coi trọng ý nghĩa của pháp luật ngay cả khi chưa xảy ra rủi ro, chú trọng nghiên cứu, khai thác nhiều kênh thông tin nhằm cập nhật những văn bản pháp luật có liên quan đến doanh nghiệp kịp thời, nhằm hạn chế tối đa rủi ro và tăng cường năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp mình; phát huy và sử dụng có hiệu quả quyền được tư vấn pháp luật trước khi thực hiện các hoạt động kinh doanh... Có như vậy các doanh nghiệp mới có thể phòng ngừa, chủ động trong các hoạt động kinh doanh của mình, nhất là trong điều kiện kinh tế hội nhập như hiện nay./. Nguồn: Tạp chí Luật sư Việt Nam số 11 (tháng 11/2019) – Chuyên trang về hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa | False | Trần Thị Kim Yến | | Nghị định số 74/2019/NĐ-CP ngày 23/9/2019 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định số 61/2015/NĐ-CP ngày 09 tháng 7 năm 2015 của Chính phủ quy định về chính sách hỗ trợ tạo việc làm và Quỹ Quốc gia về việc làm | Văn bản QPPL | Tin | Nghị định số 74/2019/NĐ-CP ngày 23/9/2019 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định số 61/2015/NĐ-CP ngày 09 tháng 7 năm 2015 của Chính phủ quy định về chính sách hỗ trợ tạo việc làm và Quỹ Quốc gia về việc làm | /Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg | | 10/15/2019 12:00 PM | No | Đã ban hành | | | False | Trần Thị Kim Yến | | Nghị định số 74/2019/NĐ-CP: Doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã, người lao động sẽ được nâng mức vay | Thông tin | Tin | Nghị định số 74/2019/NĐ-CP: Doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã, người lao động sẽ được nâng mức vay | /Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg | | 10/15/2019 11:00 AM | No | Đã ban hành | | Chính phủ ban hành Nghị định số 74/2019/NĐ-CP về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 61/2015/NĐ-CP quy định về chính sách hỗ trợ tạo việc làm và Quỹ quốc gia về việc làm theo hướng nâng mức vay ưu đãi từ Quỹ quốc gia về việc làm đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã, tổ hợp tác, hộ kinh doanh và người lao động. Nghị định số 61/2015/NĐ-CP quy định Quỹ quốc gia về việc làm được sử dụng cho vay ưu đãi đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã, tổ hợp tác, hộ kinh doanh (cơ sở sản xuất, kinh doanh) và người lao động để tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm. Về mức vay đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh, Nghị định 61/2015/NĐ-CP quy định mức vay 1 dự án tối đa là 1 tỷ đồng và không quá 50 triệu đồng cho 1 người lao động được tạo việc làm. Đối với người lao động, mức vay tối đa là 50 triệu đồng. Các mức vay trên được nâng lên tại Nghị định số 74/2019/NĐ-CP. Cụ thể, đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh, mức vay tối đa là 2 tỷ đồng/dự án và không quá 100 triệu đồng cho 1 người lao động được tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm. Đối với người lao động, mức vay tối đa là 100 triệu đồng. Thời hạn vay vốn cũng được tăng từ không quá 60 tháng lên tối đa 120 tháng. Về điều kiện bảo đảm tiền vay, Nghị định 74/2019/NĐ-CP quy định đối với mức vay từ 100 triệu đồng trở lên, cơ sở sản xuất, kinh doanh phải có tài sản bảo đảm tiền vay theo quy định pháp luật về giao dịch bảo đảm. Về lãi suất vay vốn đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh và người lao động (tại khoản 1 Điều 12 Luật Việc làm), Nghị định 74/2019/NĐ-CP sửa đổi theo hướng tăng từ bằng lãi suất cho vay đối với hộ nghèo lên bằng lãi suất cho vay đối với hộ cận nghèo. Nghị định cũng sửa đổi một số nội dung khác liên quan đến điều kiện bảo đảm tiền vay đối với người lao động vay vốn ưu đãi để đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; huy động nguồn vốn để cho vay hỗ trợ tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm, hỗ trợ người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng... Nghị định có hiệu lực từ ngày 8/11/2019./. Nguồn: Bộ Tư pháp | False | Trần Thị Kim Yến | | Quy định mới về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa | Thông tin | Tin | Quy định mới về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa | /Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg | | 10/4/2019 11:00 AM | No | Đã ban hành | | Nghị định 55 2019 NĐ-CP.pdf Ngày 24 tháng 6 năm 2019, Chính phủ ban hành Nghị định số 55/2019/NĐ-CP về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nghị định số 55/2019/NĐ-CP quy định chi tiết các hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa; trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương cấp tỉnh, cơ quan, tổ chức khác và cá nhân có liên quan trong công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Áp dụng đối với Bộ, cơ quan ngang bộ; chính quyền địa phương cấp tỉnh; doanh nghiệp nhỏ và vừa; tổ chức đại diện cho doanh nghiệp; cơ quan, tổ chức và cá nhân cung cấp dịch vụ hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa; cơ quan, tổ chức và cá nhân khác có liên quan đến hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 16 tháng 8 năm 2019 và thay thế Nghị định số 66/2008/NĐ-CP ngày 28 tháng 5 năm 2008 của Chính phủ về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp./. | False | Lê Thị Phương | | Đã có nguyên tắc mới để thực hiện hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa | Thông tin | Tin | Đã có nguyên tắc mới để thực hiện hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa | /Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg | | 8/10/2019 3:00 PM | No | Đã ban hành | | Ngày 24 tháng 6 năm 2019, Chính phủ ban hành Nghị định số 55/2019/NĐ-CP về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nghị định quy định chi tiết các hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa; trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương cấp tỉnh, cơ quan, tổ chức khác và cá nhân có liên quan trong công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Áp dụng đối với Bộ, cơ quan ngang bộ; chính quyền địa phương cấp tỉnh; doanh nghiệp nhỏ và vừa; tổ chức đại diện cho doanh nghiệp; cơ quan, tổ chức và cá nhân cung cấp dịch vụ hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa; cơ quan, tổ chức và cá nhân khác có liên quan đến hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. So với Nghị định 66/2008/NĐ-CP ngày 28 tháng 5 năm 2008 của Chính phủ về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp với 03 nguyên tắc (như: được thực hiện đối với mọi doanh nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu, hình thức tổ chức, quy mô kinh doanh và lĩnh vực hoạt động; thực hiện với các hình thức phù hợp; có sự phối hợp giữa cơ quan nhà nước với các tổ chức đại diện của doanh nghiệp) thì Nghị định số 55/2019/NĐ-CP quy định cụ thể hơn về nguyên tắc thực hiện hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, với 05 nguyên tắc, cụ thể: 1. Việc hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa có trọng tâm, có thời hạn, phù hợp với mục tiêu hỗ trợ và khả năng cân đối nguồn lực; bảo đảm công khai, minh bạch, hiệu quả; không chồng chéo, trùng lặp. 2. Hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa được thực hiện trên cơ sở phối hợp giữa cơ quan nhà nước với tổ chức đại diện của doanh nghiệp nhỏ và vừa; tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan. 3. Việc hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa được ưu tiên thực hiện thông qua tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ hỗ trợ pháp lý. 4. Căn cứ nguồn lực, chương trình hỗ trợ, cơ quan, tổ chức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa quyết định hỗ trợ theo thứ tự ưu tiên như sau: a) Doanh nghiệp nhỏ và vừa do phụ nữ làm chủ, doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ hơn nộp hồ sơ đáp ứng đủ điều kiện được hỗ trợ trước; b) Doanh nghiệp nhỏ và vừa sử dụng từ 30% tổng số lao động trở lên là người khuyết tật theo quy định của Luật Người khuyết tật; c) Doanh nghiệp nhỏ và vừa nộp hồ sơ đáp ứng đủ điều kiện hỗ trợ trước được hỗ trợ trước. 5. Nhà nước khuyến khích và có chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện cho cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân tham gia thực hiện hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa; huy động các nguồn lực xã hội đóng góp cho hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 16 tháng 8 năm 2019 và thay thế Nghị định số 66/2008/NĐ-CP ngày 28 tháng 5 năm 2008 của Chính phủ về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp./. | False | Lê Thị Phương | | Phát huy vai trò cầu nối giữa CQQLNN và các doanh nghiệp trong việc xây dựng và thực thi pháp luật | Thông tin | Tin | Phát huy vai trò cầu nối giữa CQQLNN và các doanh nghiệp trong việc xây dựng và thực thi pháp luật | /Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg | Ngày 19/12/2018 Bộ Tư pháp tổ chức Hội nghị đối thoại với doanh nghiệp về “Phát huy vai trò cầu nối giữa cơ quan quản lý nhà nước và các doanh nghiệp trong việc xây dựng và thực thi pháp luật” nhằm trao đổi những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của Câu lạc bộ pháp chế doanh nghiệp; phương hướng hoạt động của Câu lạc bộ trong thời gian tới để đảm bảo sự gắn kết giữa cơ quan nhà nước và doanh nghiệp trong việc hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. | 12/24/2018 9:00 AM | No | Đã ban hành | | Tại Hội nghị, đại diện Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật, Bộ Tư
pháp trình bày kết quả và tồn tại, hạn chế về sự tham gia của doanh
nghiệp vào quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật nhìn từ góc độ
cơ quan quản lý nhà nước về công tác xây dựng pháp luật. Từ đó, đại diện
đơn vị phân tích nguyên nhân từ phía cơ quan nhà nước như một số cơ
quan chưa coi trọng đúng mức việc lấy ý kiến và việc tiếp thu giải
trình, phản hồi đầy đủ ý kiến thu được từ đối tượng chịu tác động trực
tiếp, người dân, doanh nghiệp, thời gian gửi hồ sơ lấy ý kiến ngắn, gấp,
chưa đúng quy định của Luật, nhiều trường hợp hồ sơ, tài liệu gửi lấy ý
kiến không đầy đủ…, từ phía các doanh nghiệp như nhận thức về quyền và
lợi ích của các doanh nghiệp trong quá trình xây dựng pháp luật chưa
cao, khả năng tiếp cận, phân tích, đánh giá văn bản QPPL còn thấp, chỉ
quan tâm đến pháp luật khi quy định đó có liên quan trực tiếp đến mình
hoặc khi nảy sinh sự việc,… Đồng thời đưa ra một số giải pháp giúp doanh
nghiệp tham gia sâu hơn vào quá trình xây dựng văn bản QPPL như tiếp
tục nghiên cứu để điều chỉnh quy trình lấy ý kiến người dân, doanh
nghiệp trong quá trình xây dựng pháp luật hợp lý hơn như tăng cường
trách nhiệm của cơ quan chủ trì soạn thảo, tóm tắt nội dung dự thảo dễ
hiểu, kéo dài thời gian xin ý kiến, tăng cường trách nhiệm giải trình,
tăng cường vai trò của các hiệp hội, câu lạc bộ như Câu lạc bộ pháp chế
doanh nghiệp làm cầu nối giữa doanh nghiệp và cơ quan nhà nước…
Về phía Câu lạc bộ pháp chế doanh nghiệp, để thực hiện trách nhiệm của
mình trong vai trò là cầu nối giữa cơ quan quản lý nhà nước và các doanh
nghiệp, Câu lạc bộ thường xuyên tổ chức các tọa đàm, diễn đàn pháp luật
mang tính thời sự liên quan tới hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp nên đã thu hút nhiều doanh nghiệp, cơ quan báo chí tham gia và
đưa tin về tọa đàm, hội thảo. Thông qua hoạt động này, doanh nghiệp hội
viên Câu lạc bộ có thể nói lên tiếng nói của mình, đề xuất, kiến nghị
với các cơ quan quản lý Nhà nước sửa đổi những chính sách không còn phù
hợp hoặc gây nhiều bất lợi cho doanh nghiệp trong quá trình thực thi.
Kết thúc mỗi tọa đàm, hội thảo Câu lạc bộ có báo cáo tổng hợp những kiến
nghị, đề xuất của các đại biểu tham dự gửi các cơ quan quản lý nhà nước
có liên quan để nghiên cứu sửa đổi các quy định đã ban hành không còn
phù hợp và hoàn chỉnh các Dự thảo Luật sắp ban hành. Ngoài ra Câu lạc bộ
rất quan tâm tới các hoạt động bồi dưỡng kiến thức pháp luật kinh doanh
và kỹ năng, nghiệp vụ cho cán bộ pháp chế doanh nghiệp và tư vấn pháp
luật cho doanh nghiệp.
Về phía Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, để thực hiện được hoạt
động góp ý xây dựng pháp luật có chất lượng, thể hiện được tính đại
diện cho cộng đồng doanh nghiệp và cân bằng được các lợi ích, VCCI đã
xây dựng quy trình góp ý hoàn chỉnh và được cấp chứng nhận ISO. Bên cạnh
đó, VCCI tổ chức các cuộc khảo sát, các cuộc tiếp xúc, đối thoại với
doanh nghiệp, trong đó có lồng ghép các nội dung tìm hiểu, đánh giá nhu
cầu, những thuận lợi, khó khăn của doanh nghiệp trong hoạt động xây dựng
và hoàn thiện pháp luật. Trong năm 2018, bên cạnh việc lấy ý kiến bằng
văn bản và ứng dụng công nghệ thông tin, Ban Pháp chế VCCI đã tổ chức
gần 14 hội thảo tại Hà Nội và 9 hội thảo tại các địa phương, thu nhận
được rất nhiều ý kiến tham luận, với sự tham dự của hàng trăm doanh
nghiệp, hiệp hội, chuyên gia Việt Nam và nước ngoài, các cơ quan nhà
nước, cơ quan báo chí.
Tại Hội nghị, các doanh nghiệp phát biểu ý kiến rất sôi nổi và kiến
nghị nhiều cách thức để tạo điều kiện cho doanh nghiệp tham gia quá
trình xây dựng và thực thi pháp luật. Qua Hội nghị này, một số doanh
nghiệp hiểu rõ hơn về vai trò cầu nối của Câu lạc bộ pháp chế doanh
nghiệp, từ đó sẽ phối hợp chặt chẽ hơn với Câu lạc bộ cũng như VCCI để
có thể đóng góp ý kiến giúp hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, khả
thi, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người dân, doanh nghiệp.
Sưu tầm: Cổng Thông tin điện tử Bộ Tư pháp
| False | Phòng XD&KTVB |
|