Công tác xây dựng
Thứ 6, Ngày 21/12/2018, 11:00
Bảo đảm tính công khai, minh bạch trong quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật tại Việt Nam
Cỡ chữ: Font size: Giảm (A-) Mặc định (A) Tăng (A+)
21/12/2018 | Phòng VB-TT

Trong bối cảnh thực hiện chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền và quá trình hội nhập quốc tế, việc bảo đảm công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật ở Việt Nam luôn được coi là một yêu cầu không thể thiếu nhằm đảm bảo nguyên tắc dân chủ trong hoạt động của nhà nước và là yêu cầu bắt buộc đối với Việt Nam theo nhiều điều ước mà Việt Nam là thành viên. Đảm bảo tính công khai, minh bạch có ý nghĩa quan trọng đối với hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nói riêng.
 Với mục tiêu xây dựng hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, minh bạch, khả thi, dễ tiếp cận, hiệu lực và hiệu quả thì một trong những điều kiện, giải pháp cần thiết và quan trọng là phải bảo đảm tính công khai, minh bạch ngay trong quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Theo đó, bên cạnh việc quy định trình tự, thủ tục chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước với nhau thì cần bảo đảm sự tham gia của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật và quyền tiếp cận của người dân sau khi văn bản được ban hành.
Nhằm tạo khuôn khổ pháp lý thống nhất cho việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật tại Việt Nam, từ cấp trung ương đến địa phương, ngày 22/6/2015, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015. Luật có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2016. Luật năm 2015 có nhiều quy định mới mang tính đột phá so với Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân năm 2004, trong đó có nhiều quy định nhằm bảo đảm tốt hơn yêu cầu công khai, minh bạch trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
1. Bảo đảm tính công khai - quyền được biết và tham gia vào quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật
Luật năm 2015 đã dành 09 chương (Chương III, IV, V, VI, VII, VIII, IX, X và XI) để quy định trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền từ Quốc hội, Chính phủ đến chính quyền địa phương. Căn cứ vào tính chất quan trọng và phức tạp của mỗi loại văn bản quy phạm pháp luật mà trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành mỗi loại văn bản có những điểm đặc thù riêng. Tuy nhiên, đều được quy định rõ ràng, cụ thể về quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan có liên quan, thời hạn, hồ sơ, cách thức tiến hành xây dựng, xem xét, thông qua văn bản. Theo đó, bảo đảm tính công khai được coi là một trong những yêu cầu xuyên suốt trong quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, bảo đảm sự tham gia các chuyên gia, nhà khoa học trong quá trình lập đề nghị, soạn thảo, thẩm định, thẩm tra dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật
Theo quy định tại Điều 11 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 thì trong quá trình lập đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan, tổ chức lập đề nghị có thể huy động sự tham gia của các viện nghiên cứu, trường đại học, hội, hiệp hội, tổ chức khác có liên quan, các chuyên gia, nhà khoa học vào các hoạt động như: (1) Tổng kết, đánh giá tình hình thi hành pháp luật; rà soát đánh giá các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành; (2) Khảo sát, điều tra xã hội học; đánh giá thực trạng quan hệ xã hội có liên quan đến các chính sách trong đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; (3) Tập hợp, nghiên cứu, so sánh tài liệu, điều ước quốc tế có liên quanđến các chính sách trong đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; (4) Đánh giá tác động của chính sách trong đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
Trong giai đoạn soạn thảo, các chuyên gia, nhà khoa học được quy định là thành phần bắt buộc trong Ban soạn thảo, trong Hội đồng thẩm định, Hội đồng tư vấn thẩm định các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Để bảo đảm tính khả thi của cơ chế huy động chuyên gia, nhà khoa học, Nghị định số 34 đã dành 1 điều (Điều 175) để quy định về điều kiện bảo đảm cho việc sử dụng chuyên gia trong quá trình lập đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, soạn thảo, thẩm định, thẩm tra dự án, dự thảo văn bản.
Thứ hai, bảo đảm sự tham gia của các cơ quan, tổ chức, cá nhân thông qua việc cho ý kiến đối với dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật
Trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, các cơ quan nhà nước cần phải lấy ý kiến, lắng nghe ý kiến của người dân để bàn bạc, nghiên cứu tiếp thu nhằm làm cho các chính sách được đề xuất sau khi được luật hóa sẽ phù hợp và đáp ứng được yêu cầu của cuộc sống. Sự tham gia này là một trong những điều kiện quan trọng và không thể thiếu giúp bảo đảm tính khả thi của văn bản trong thực tiễn thi hành, bảo đảm pháp luật sát dân, gần dân, phản ánh được ý chí, nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân góp phần bảo đảm hài hòa các quyền, lợi ích trong xã hội.
Luật năm 2015 đã bổ sung những quy định hợp lý hơn về việc lấy ý kiến và tạo điều kiện để nhân dân tham gia xây dựng pháp luật một cách thực chất, hiệu quả hơn như:
-  Quy định việc lấy ý kiến là thủ tục bắt buộc trong cả giai đoạn xây dựng chính sách và giai đoạn soạn thảo đối với tất cả các luật, pháp lệnh, một số loại nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, nghị định của Chính phủ và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Đối với các loại văn bản pháp luật còn lại thì việc lấy ý kiến được thực hiện khi đã có dự thảo văn bản.
- Việc lấy ý kiến được thực hiện với nhiều hình thức đa dạng và trong các giai đoạn khác nhau giúp có cái nhìn toàn diện, khách quan và chính xác nhất về những chính sách trong đề nghị và dự thảo văn bản. Chẳng hạn: dự thảo Luật quy định cần phải đăng tải hồ sơ đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh trên Trang thông tin về xây dựng pháp luật của Chính phủ trong thời gian ít nhất là 30 ngày. Đối với đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh, trong trường hợp cần thiết thì tổ chức họp báo thông tin về những chính sách cơ bản trong đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh để thu hút hơn nữa sự quan tâm của các đối tượng chịu sự tác động. Đối với đề nghị xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, trong trường hợp cần thiết, cơ quan chủ trì soạn thảo tổ chức đối thoại trực tiếp về chính sách với các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của nghị quyết.
- Quy định trách nhiệm bắt buộc lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp các chính sách trong đề nghị và dự thảo văn bản. (Theo Luật năm 2015 thì đối tượng này là cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm chịu ảnh hưởng trực tiếp từ việc áp dụng văn bản đó sau khi được ban hành).
- Quy định rõ trách nhiệm của cơ quan, tổ chức được yêu cầu góp ý kiến như quy định trách nhiệm góp ý kiến bằng văn bản về đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh, nghị định trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị góp ý kiến và trách nhiệm góp ý kiến bằng văn bản về nguồn tài chính, nguồn nhân lực, tác động đối với môi trường, sự tương thích với điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Với những quy định nêu trên, có thể thấy rằng, việc lấy ý kiến trong Luật năm 2015 đã được sửa đổi khá toàn diện, với nhiều quy định mới, tiến bộ, hợp lý nhằm tăng cường tính dân chủ, phát huy trách nhiệm của công dân cũng như bảo đảm tốt hơn sự tham gia của người dân, doanh nghiệp, tổ chức xã hội trong xây dựng, ban hành văn bản pháp luật. Trong đó, đặc biệt là quy định tổ chức lấy ý kiến những vấn đề lớn về chính sách ngay từ giai đoạn đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, nghị định của Chính phủ, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong thời gian ít nhất là 30 ngày và quy định đăng tải báo cáo tiếp thu, giải trình trên trang thông tin điện tử về xây dựng pháp luật của Chính phủ, Cổng thông tin điện tử của cơ quan, tổ chức lập đề nghị xây dựng văn bản.
Thứ ba, bảo đảm quyền tiếp cận văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân sau khi văn bản được ban hành
Sau khi văn bản quy phạm pháp luật được thông qua hoặc ký ban hành, cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền có trách nhiệm thực hiện một số hoạt động như: công bố văn bản quy phạm pháp luật; đăng Công báo; đăng tải văn bản quy phạm pháp luật trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật và đưa tin trên phương tiện thông tin đại chúng. Các hoạt động nêu trên là hết sức quan trọng, để bảo đảm công khai văn bản với người dân, giúp mọi người biết được quyền, nghĩa vụ của mình để thực hiện cho đúng pháp luật. Cụ thể như sau:
- Luật, pháp lệnh sau khi được Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua phải được Chủ tịch nước công bố (chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày luật, pháp lệnh được thông qua). Đối với nghị quyết của Quốc hội, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, để bảo đảm tính công khai, minh bạch, Luật năm 2015 bổ sung quy định: Tổng thư ký Quốc hội có trách nhiệm công bố chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày nghị quyết được thông qua, trừ nghị quyết được xây dựng, ban hành theo trình tự, thủ tục rút gọn;
- Đăng Công báo văn bản quy phạm pháp luật (trừ văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền cấp huyện, cấp xã). Theo đó, Điều 150 Luật năm 2015 quy định các văn bản quy phạm pháp luật ở trung ương phải được đăng Công báo nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền cấp tỉnh và ở đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt phải được đăng Công báo cấp tỉnh. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành, cơ quan, người có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải gửi văn bản đến cơ quan Công báo để đăng Công báo.
- Đăng tải văn bản quy phạm pháp luật trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật và đưa tin trên phương tiện thông tin đại chúng. Với mục tiêu tăng cường tính công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật, bảo đảm quyền được thông tin và tiếp cận thông tin của công dân, trong đó có thông tin pháp luật theo quy định của Hiến pháp, ngoài việc công bố và đăng Công báo, Luật năm 2015 còn quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc đăng tải văn bản quy phạm pháp luật trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật và đưa tin trên các phương tin thông tin đại chúng.
2. Bảo đảm tính minh bạch - trách nhiệm giải trình, phản hồi của cơ quan chủ trì soạn thảo
Trong thời gian qua, về cơ bản, các cơ quan chủ trì soạn thảo đã bảo đảm sự công khai trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật như việc thực hiện nghiêm túc thủ tục đăng tải dự án, dự thảo để lấy lý kiến; bảo đảm sự tham gia của chuyên gia, nhà khoa học trong quá trình soạn thảo; công bố, đăng công báo văn bản quy phạm pháp luật… Tuy nhiên, nhiều hoạt động còn chưa sát thực tế, mang tính hình thức, chẳng hạn như đăng tải toàn văn dự án, dự thảo văn bản đồ sộ, nhiều thuật ngữ chuyên ngành để lấy ý kiến người dân; cơ quan soạn thảo chưa công khai việc tiếp thu, phản hồi ý kiến góp ý… Để khắc phục những tồn tại, hạn chế nêu trên, góp phần tăng cường hơn nữa tính minh bạch trong quy trình xây dựng văn bản, Luật năm 2015 bổ sung một số quy định như sau:
Thứ nhất, bên cạnh việc đăng tải toàn văn dự thảo văn bản, cơ quan lấy ý kiến cần xác định nội dung lấy ý kiến phù hợp với từng đối tượng lấy ý kiến và xác định cụ thể địa chỉ tiếp nhận ý kiến kiến; tập trung vào những chính sách lớn, quan trọng, trực tiếp ảnh hưởng đến doanh nghiệp, người dân.
Thứ hai, quy định rõ trách nhiệm của cơ quan, tổ chức lấy ý kiến trong việc phản hồi đối với các ý kiến góp ý, phản biện. Theo đó, cơ quan lấy ý kiến có trách nhiệm tổng hợp, nghiên cứu, tiếp thu, giải trình các ý kiến góp ý và phải đăng tải báo cáo tiếp thu, giải trình trên trên Trang thông tin điện tử của Quốc hội đối với đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh do Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, đại biểu Quốc hội trình, Trang thông tin điện tử về xây dựng pháp luật đối với đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh do Chính phủ trình, Cổng thông tin điện tử của các cơ quan, tổ chức lập đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh. Thời gian đăng tải ít nhất là ba mươi ngày để các cơ quan, tổ chức, cá nhân góp ý kiến.
Thứ ba, bảo đảm việc cập nhật dự thảo văn bản mới trong trường hợp dự thảo đã đăng tải để lấy ý kiến có thay đổi về nội dung. Một thời gian dài trước đây, cơ quan chủ trì soạn thảo chỉ đăng một lần dự thảo văn bản để lấy ý kiến. Tiếp thu ý kiến góp ý của cộng đồng doanh nghiệp và nhiều chuyên gia pháp lý, Luật năm 2015 đã có quy định mới trong lĩnh vực này. Cụ thể: trong thời gian dự thảo luật, pháp lệnh, nghị quyết đang được lấy ý kiến nếu cơ quan chủ trì soạn thảo chỉnh lý lại dự thảo văn bản mà khác với dự thảo đã đăng tải trước đó thì phải đăng lại dự thảo văn bản đã được chỉnh lý./.
                                                                                                   Sưu tầm Công thông tin điện tử Bộ Tư pháp - Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật
Lượt người xem:  Views:   5485
Chia sẻ:
Share:
Tin khác
 
 
Manage PermissionsManage Permissions
|
Version HistoryVersion History

Tiêu đề

Hình ảnh

Hình ảnh mô tả

Tóm tắt

Nội dung

Link thay thế nội dung

Ngày xuất bản

Tin nổi bật

Phân loại

Loại bài viết

Số Trang

Số Ảnh

Số tiền

Tin liên quan

Audio

Từ khóa

Trạng thái

Lịch sử

Số lượt người đọc

Tin mới nhất

Tác giả

Từ khóa

Approval Status

Attachments

Content Type: Tin Tức Mở Rộng
Version:
Created at by
Last modified at by
Ảnh
Video
Audio