Giám định tư pháp
 
Một số kết quả đạt được trong việc thực hiện Đề án “Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp” và Luật Giám định tư pháp trên địa bàn tỉnh Bình Dương năm 2014   Thứ nhất, về công quán triệt, phổ biến Luật Giám định tư pháp và các văn bản hướng dẫn thi hành Nhằm tuyên truyền, phổ biến Luật Giám định tư pháp đến cán bộ, công chức, các tầng lớp nhân dân, Sở Tư pháp đã thường ...
 
Luật Giám định tư pháp đang dần dần đi vào cuộc sống Luật Giám định tư pháp được Quốc hội thông qua ngày 20/6/2012 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2013 (Luật) với nhiều quy định mới so với Pháp lệnh Giám định tư pháp trước đây. Để các quy định của Luật được thực hiện có hiệu quả trên thực tế, trong thời gian qua, cùng với việc phổ biến, tuyên truyền các nội dung của Luật, Chính ...
 
MỘT SỐ VĂN BẢN PHÁP LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN LĨNH VỰC GIÁM ĐỊNH TƯ PHÁP  1. Luật Giám định tư pháp (có hiệu lực từ ngày 01/01/2013);2. Nghị định 85/2013/NĐ-CP của Chính phủ về việc quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Giám định tư pháp (có hiệu lực từ ngày 15/9/2013);3. Thông tư 04/2013/TT-BVHTTDL của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về việc quy định tiêu chuẩn, hồ sơ, thủ tục bổ nhiệm, ...
Họp Ban Chỉ đạo thực hiện Đề án “Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp” trên địa bàn tỉnh và Ban Chỉ đạo “Thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại” tại tỉnh Bình Dương.   Sáng 26/12/2014, tại UBND tỉnh, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Trần Văn Nam chủ trì họp Ban chỉ đạo thực hiện Đề án “Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp” và Ban Chỉ đạo ...
 
Báo cáo tình hình thực hiện chế độ bồi dưỡng cho đội ngũ giám định viên tư pháp   Thực hiện Đề án “Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp” (ban hành kèm theo Quyết định số 258/QĐ-TTg ngày 11/02/2010 của Thủ tướng Chính phủ), Kế hoạch triển khai thi hành Luật Giám định tư pháp trên địa bàn tỉnh Bình Dương (ban hành kèm theo Quyết định số 239/QĐ-UBND ngày 28/01/2013 ...
   DANH SÁCH                      TỔ CHỨC GIÁM ĐỊNH TƯ PHÁP CÔNG LẬP,GIÁM ĐỊNH VIÊN TƯ PHÁP VÀ                         NGƯỜI GIÁM ĐỊNH THEO VỤ VIỆC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH DƯƠNG    STT Tên tổ chức Địa chỉ Điện thoại Website Khen thưởng, thành tích ...
 
Hướng dẫn thực hiện một số quy định của Luật giám định Tư pháp
 
 
  
  
  
  
Tóm tắt
  
  
  
  
Nội dung
Phân loại
  
  
  
Hội nghị bồi dưỡng kiến thức pháp lý về giám định tư phápTinHội nghị bồi dưỡng kiến thức pháp lý về giám định tư pháp/bo-tro-tu-phap/PublishingImages/2022-11/BOI DUONG KIEN THUC PHAP LY VE GIAM DINH TU PHAP_Key_23112022094936.PNG
11/23/2022 10:00 AMNoĐã ban hành
TTĐT - ​Ngày 17-11, tại TP.Thủ Dầu Một, Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương tổ chức Hội nghị bồi dưỡng kiến thức pháp lý về giám định tư pháp trên địa bàn tỉnh Bình Dương năm 2022 cho hơn 100 đại biểu là các giám định viên tư pháp, người giám định tư pháp theo vụ việc, các cá nhân phụ trách công tác giám định tư pháp tại các sở, ngành trên địa bàn tỉnh.
​Phát biểu tại hội nghị, bà Nguyễn Anh Hoa – Giám đốc Sở Tư pháp cho biết, giám định tư pháp là một loại hoạt động bổ trợ tư pháp, là công cụ quan trọng, phục vụ đắc lực cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và công tác thi hành án hình sự. Qua đó, góp phần quan trọng vào việc giải quyết các vụ án được chính xác, khách quan và đúng pháp luật. Giám định tư pháp đã được thể chế hóa trong Luật Giám định tư pháp năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020), Nghị định số 157/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 85/2013/NĐ-CP ngày 29/7/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Giám định tư pháp, Thông tư số 11/2020/TT-BTP ngày 31/12/2020 quy định về mẫu thẻ, trình tự, thủ tục cấp mới, cấp lại thẻ giám định viên tư pháp. Đây là cơ sở hoàn thiện pháp luật về tố tụng, đảm bảo sự liên thông, đồng bộ giữa quy định của pháp luật giám định tư pháp với quy định của pháp luật về tố tụng.
 
Bà Nguyễn Anh Hoa – Giám đốc Sở Tư pháp phát biểu tại Hội nghị​​


Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 02 tổ chức giám định tư pháp công lập là Phòng Kỹ thuật Hình sự, Công an tỉnh và Trung tâm Pháp y tỉnh, chưa có Văn phòng Giám định tư pháp. Tổng số người giám định tư pháp là 103 người, trong đó: 77 giám định viên tư pháp và 26 người giám định tư pháp theo vụ việc.
 
Báo cáo viên trình bày tại hội nghị​


Tại hội nghị, các đại biểu được nghe báo cáo viên trình bày 2 nội dung chính là các quy định pháp luật về giám định tư pháp và một số kỹ năng pháp lý cơ bản của người giám định tư pháp.
 

 ​
Đại biểu tham d​ự hội nghị
​Nguồn:www.binhduong.gov.vn 
Tin ngành tư pháp; Thông tinFalseVăn phòng Sở
Cấp Thẻ giám định viên tư pháp cho 45 cá nhânTinCấp Thẻ giám định viên tư pháp cho 45 cá nhân/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
4/7/2022 5:00 PMNoĐã ban hành

Ngày 04/4/2022, Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương đã ban hành Quyết định số 794/QĐ-UBND về việc cấp Thẻ giám định viên tư pháp. Theo đó, Ủy ban nhân dân tỉnh​ cấp Thẻ giám định viên tư pháp cho 45 cá nhân công tác tại các sở, ngành: Y tế, Giao thông vận tải, Công thương, Khoa học và công nghệ, Tài nguyên và Môi trường, Thông tin và Truyền thông, Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Công an tỉnh.

794-QD.signed.pdf

Thông tinFalsePhòng Bổ trợ Tư pháp
Thông báo về việc miễn nhiệm giám định viên tư pháp thuộc lĩnh vực Tài nguyên - Môi trườngTinThông báo về việc miễn nhiệm giám định viên tư pháp thuộc lĩnh vực Tài nguyên - Môi trường/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
1/4/2022 5:00 PMNoĐã ban hành

​Ngày 31/12/2021, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Quyết định số 3209/QĐ-UBND về việc miễn nhiệm giám định viên tư pháp thuộc lĩnh vực Tài nguyên - Môi trường đối với ông Vũ Dương Long, sinh năm 1960. 

Lý do miễn nhiệm: Đã nghỉ hưu.

3209-QD.signed.pdf

Thông tinFalsePhòng Bổ trợ Tư pháp
Công bố danh sách cá nhân, tổ chức giám định tư pháp trên địa bàn tỉnh Bình Dương năm 2021TinCông bố danh sách cá nhân, tổ chức giám định tư pháp trên địa bàn tỉnh Bình Dương năm 2021/bo-tro-tu-phap/PublishingImages/2022-01/bttp-2022-congboGDVTP_Key_28012022132455.jpg
1/4/2022 2:00 PMNoĐã ban hành

​Ngày 31/12/2021, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ​​ban hành Quyết định số 3210/QĐ-UBND về việc công bố danh sách cá nhân, tổ chức giám định tư pháp trên địa bàn tỉnh Bình Dương năm 2021. Theo đó, tỉnh Bình Dương có 02 tổ chức giám định tư pháp công lập và 102 cá nhân: 76 giám định viên tư pháp, 26 người giám định tư pháp theo vụ việc./.

bttp-2022-congboGDVTP.jpg

Nội dung chi tiết xem tại file đính kèm 3210-QD.signed.pdf

Thông tinFalsePhòng Bổ trợ Tư pháp
Thông báo về việc miễn nhiệm giám định viên tư pháp thuộc lĩnh vực Tài nguyên - Môi trườngTinThông báo về việc miễn nhiệm giám định viên tư pháp thuộc lĩnh vực Tài nguyên - Môi trường/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
1/4/2022 2:00 PMNoĐã ban hành

​Ngày 31/12/2021, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương đã ban hành Quyết định số 3209/QĐ-UBND về việc miễn nhiệm giám định viên tư pháp​ thuộc lĩnh vực Tài nguyên - Môi trường. Theo đó, miễn nhiệm giám định viên tư pháp​ đối với ông Vũ Dương Long, sinh năm 1960 do đã nghỉ hưu./.

Nội dung chi tiết xem tại file đính kèm 3209-QD.signed.pdf

Thông tinFalsePhòng Bổ trợ Tư pháp
Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 85/2013/NĐ-CP ngày 29/7/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Giám định tư phápTinSửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 85/2013/NĐ-CP ngày 29/7/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Giám định tư pháp/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
11/12/2021 2:00 PMNoĐã ban hành

Ngày 31/12/2020, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 157/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 85/2013/NĐ-CP ngày 29/7/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Giám định tư pháp. Theo đó, Nghị định có một số điểm mới nổi bật như sau:

1. Sửa đổi phạm vi điều chỉnh của Nghị định

So với Nghị định số 85/2013/NĐ-CP thì phạm vi điều chỉnh của Nghị định cơ bản giữ nguyên. Nghị định số 157/2020/NĐ-CP chỉ bổ sung quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thuộc Chính phủ; bổ sung nội dung quy định về việc quyết định công nhận người giám định tư pháp theo vụ việc, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc để thay thế cho việc công bố danh sách người giám định tư pháp theo vụ việc, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc như đã thực hiện trước đây.

2. Sửa đổi, bổ sung Điều 23 Nghị định số 85/2013/NĐ-CP về thời gian công bố danh sách người giám định tư pháp theo vụ việc, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc

"Điều 23. Công nhận và đăng tải, hủy bỏ công nhận người giám định tư pháp theo vụ việc, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc

1. Căn cứ vào nhu cầu thực tiễn của hoạt động tố tụng, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh lựa chọn người có đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 18, tổ chức có đủ điều kiện theo quy định tại Điều 19 của Luật Giám định tư pháp ra quyết định công nhận người giám định tư pháp theo vụ việc, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc ở lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý.

2. Danh sách người giám định tư pháp theo vụ việc, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc được đăng tải trên cổng thông tin của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và gửi cho Bộ Tư pháp.

3. Trường hợp có sự thay đổi về thông tin liên quan đến người giám định tư pháp theo vụ việc, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc đã dược công nhận thì bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm điều chỉnh danh sách và gửi cho Bộ Tư pháp.

4. Người giám định tư pháp theo vụ việc, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc đã dược lựa chọn, lập và công bố trước ngày 01 tháng 01 năm 2021, nếu còn đủ tiêu chuẩn, điều kiện thì được công nhận là người giám định tư pháp theo vụ việc, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp.

5. Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết định hủy bỏ công nhận người giám định tư pháp theo vụ việc không còn đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 18, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc không còn có đủ điều kiện quy định tại Điều 19 của Luật Giám định tư pháp".

3. Sửa đổi, bổ sung Điều 26 về chế độ phụ cấp đối với giám định viên tư pháp và người tham gia giám định tư pháp

Ngoài việc giữ nguyên các quy định về chế độ phụ cấp đối với giám định viên tư pháp, Nghị định này đã bổ sung quy định chế độ phụ cấp đối với giám định viên tư pháp và người tham gia giám định tư pháp thuộc tổ chức giám định tư pháp công lập về pháp y thuộc ngành y tế, cụ thể như sau: "Giám định viên tư pháp và người tham gia giám định tư pháp thuộc tổ chức giám định tư pháp công lập về pháp y thuộc ngành y tế được hưởng chế độ phụ cấp thường trực."

4. Về nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh 

Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 27 Nghị định số 85/2013/NĐ-CP thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có nhiệm vụ, quyền hạn "Rà soát đội ngũ người giám định tư pháp, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc để đăng tải danh sách trên Cổng Thông tin điện tử của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo định kỳ hàng năm; đồng thời gửi Bộ Tư pháp để điều chỉnh trong danh sách chung". Quy định này đã được sửa đổi thành "Rà soát, đăng tải và cập nhật danh sách cá nhân, tổ chức giám định tư pháp trên Cổng thông tin điện tử của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, đồng thời gửi danh sách cho Bộ Tư pháp".

5. Về nhiệm vụ, quyền hạn của Sở Tư pháp

Bên cạnh việc kế thừa các quy định tại Nghị định số 85/2013/NĐ-CP thì Nghị định số 157/2020/NĐ-CP đã sửa đổi, bổ sung một số nhiệm vụ, quyền hạn của Sở Tư pháp, cụ thể:

- Chủ trì, phối hợp với cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong việc giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cấp, cấp lại, thu hồi thẻ giám định viên tư pháp;

- Phối hợp với cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý lĩnh vực giám định tư pháp trong việc lựa chọn để trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết định công nhận, ra quyết định hủy bỏ công nhận người giám định tư pháp theo vụ việc, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc ở địa phương

- Báo cáo Bộ Tư pháp và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về tổ chức, hoạt động giám định tư pháp ở địa phương theo quy định của pháp luật về chế độ báo cáo của cơ quan hành chính nhà nước và quy định về chế độ báo cáo định kỳ thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.

Nghị định này có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2021./.

Thông tinFalseTăng Thị Hà Chi
Quy định về thủ tục cấp mới, cấp lại thẻ giám định viên tư phápTinQuy định về thủ tục cấp mới, cấp lại thẻ giám định viên tư pháp/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
11/12/2021 9:00 AMNoĐã ban hành

​Ngày 31/12/2020, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 11/2020/TT-BTP quy định về mẫu thẻ, trình tự, thủ tục cấp mới, cấp lại thẻ giám định viên tư pháp. Thẻ giám định viên tư pháp được cấp cho giám định viên tư pháp để sử dụng khi thực hiện quyền và nghĩa vụ của giám định viên tư pháp.

1. Thủ tục cấp mới thẻ giám định viên tư pháp

1.1. Trường hợp cấp mới thẻ đối với người được bổ nhiệm giám định viên tư pháp từ ngày 01 tháng 01 năm 2021

- Người đề nghị bổ nhiệm giám định viên tư pháp nộp 01 bộ hồ sơ theo quy định tại Điều 8 Luật Giám định tư pháp kèm theo 02 ảnh màu chân dung cỡ 2cm x 3cm (chụp trong thời gian 6 tháng gần nhất) để phục vụ việc cấp thẻ. Thời hạn ra quyết định bổ nhiệm và cấp thẻ giám định viên tư pháp thực hiện theo quy định tại Điều 9 Luật Giám định tư pháp.

Quyết định bổ nhiệm và cấp thẻ giám định viên tư pháp kèm theo hồ sơ được chuyển đến đơn vị thuộc bộ, cơ quan ngang bộ được phân công làm đầu mối quản lý chung công tác giám định tư pháp, Sở Tư pháp.

- Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định bổ nhiệm và cấp thẻ giám định viên tư pháp kèm theo hồ sơ quy định tại khoản 1 Điều 6 của Thông tư 11/2020/TT-BTP, Thủ trưởng đơn vị thuộc bộ, cơ quan ngang bộ được phân công làm đầu mối quản lý chung công tác giám định tư pháp giúp Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ thực hiện cấp thẻ giám định viên tư pháp; Giám đốc Sở Tư pháp giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện cấp thẻ giám định viên tư pháp.

1.2. Trường hợp cấp mới thẻ đối với giám định viên tư pháp được bổ nhiệm trước ngày 01 tháng 01 năm 2021

- Giám định viên tư pháp được bổ nhiệm trước ngày 01 tháng 01 năm 2021 và không thuộc các trường hợp bị miễn nhiệm quy định tại Điều 10 Luật Giám định tư pháp thì được cấp thẻ giám định viên tư pháp.

- Hồ sơ đề nghị cấp thẻ giám định viên tư pháp đã được bổ nhiệm trước ngày 01 tháng 01 năm 2021 gồm:

+ Tờ trình của Thủ trưởng đơn vị thuộc bộ, cơ quan ngang bộ được phân công làm đầu mối quản lý chung công tác giám định tư pháp hoặc Tờ trình của Sở Tư pháp về việc cấp thẻ giám định viên tư pháp;

+ Danh sách giám định viên tư pháp theo quy định tại khoản 1 Điều 7 của Thông tư 11/2020/TT-BTP;

+ 02 ảnh màu chân dung cỡ 2cm x 3cm (chụp trong thời gian 06 tháng gần nhất) của giám định viên tư pháp.

2. Thủ tục cấp lại thẻ giám định viên tư pháp

- Thẻ giám định viên tư pháp được cấp lại trong trường hợp thẻ đã được cấp bị mất, bị hỏng (rách, bẩn, mờ) không thể sử dụng được hoặc có sự thay đổi thông tin đã được ghi trên thẻ.

- Hồ sơ đề nghị cấp lại thẻ giám định viên tư pháp gồm:

+ Đơn đề nghị cấp lại thẻ giám định viên tư pháp.

Trường hợp thẻ bị mất hoặc có thay đổi nội dung ghi trên thẻ thì đơn đề nghị cấp lại thẻ giám định viên tư pháp phải có xác nhận của cơ quan, đơn vị chủ quản.

+ Thẻ giám định viên tư pháp đang sử dụng trong trường hợp có sự thay đổi thông tin đã được ghi trên thẻ; thẻ giám định viên tư pháp trong trường hợp thẻ cũ bị hỏng;

+ 02 ảnh màu chân dung cỡ 2cm x 3cm (chụp trong thời gian 06 tháng gần nhất) của người đề nghị cấp lại thẻ giám định viên tư pháp.

Thẻ giám định viên tư pháp cấp lại trong trường hợp bị mất, bị hỏng được giữ nguyên số thẻ đã được cấp trước.

Thẻ giám định viên tư pháp cấp lại trong trường hợp thay đổi nội dung thông tin ghi trên thẻ được đánh số mới theo quy định tại Điều 4 Thông tư 11/2020/TT-BTP .

Thông tư này có hiệu lực thi hành sau 45 ngày, kể từ ngày ký./.

Thông tinFalseTăng Thị Hà Chi
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư phápTinLuật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
Ngày 10/6/2020, Quốc hội ban hành luật số 56/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp
4/15/2021 11:00 AMNoĐã ban hànhVăn bản Quy phạm Pháp luậtFalsePhòng Bổ trợ Tư pháp
Thông tư 11/2020/TT-BTP ngày 31/12/2020 của Bộ Tư pháp quy định về mẫu thẻ, trình tự, thủ tục cấp mới, cấp lại thẻ giám định viên tư phápTinThông tư 11/2020/TT-BTP ngày 31/12/2020 của Bộ Tư pháp quy định về mẫu thẻ, trình tự, thủ tục cấp mới, cấp lại thẻ giám định viên tư pháp/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
4/15/2021 11:00 AMNoĐã ban hànhVăn bản Quy phạm Pháp luậtFalsePhòng Bổ trợ Tư pháp
Tình hình tổ chức và hoạt động Giám định tư pháp trên địa bàn tỉnh Bình Dương năm 2020Bài viếtTình hình tổ chức và hoạt động Giám định tư pháp trên địa bàn tỉnh Bình Dương năm 2020/bo-tro-tu-phap/PublishingImages/2021-07/Hinh 1_BC GIAM DINH 2021_Key_07072021100505.jpg
3/1/2021 10:00 AMNoĐã ban hành

Hinh 1_BC GIAM DINH 2021.jpg 

I. TÌNH HÌNH TỔ CHỨC VÀ ĐỘI NGŨ GIÁM ĐỊNH VIÊN TƯ PHÁP, NGƯỜI LÀM CÔNG TÁC GIÁM ĐỊNH

1. Về tổ chức:

Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 02 tổ chức giám định tư pháp:

- Trung tâm Pháp Y thuộc Sở Y tế;

- Phòng Kỹ thuật Hình sự thuộc Công an tỉnh.

Trên địa bàn tỉnh chưa có văn phòng giám định tư pháp và chưa có tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc.

2. Về số lượng người giám định tư pháp

Trên địa bàn tỉnh có 112 người giám định tư pháp (86 giám định viên tư pháp, 26 người giám định tư pháp theo vụ việc), giảm 10 người so với năm 2019, cụ thể:

2.1. Về giám định viên tư pháp

Số lượng giám định viên tư pháp trên địa bàn tỉnh là: 86 người đang làm việc tại các tổ chức giám định và các sở, ngành giảm 09 người so với năm 2019 (trong đó có 9 giám định viên đã nghỉ hưu, nghỉ việc hoặc chuyển làm công tác khác nhưng chưa làm thủ tục miễn nhiệm).

2.2. Về người giám định tư pháp theo vụ việc

Trên địa bàn tỉnh hiện nay có 26 người giám định tư pháp theo vụ việc thuộc lĩnh vực pháp y, thuế, mã số hàng hóa, trị giá hàng hóa, xây dựng giảm 01 người so với năm 2019.

3. Về cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện phục vụ cho công tác giám định.

3.1. Tại các tổ chức giám định tư pháp

- Trang thiết bị, phương tiện phục vụ cho công tác giám định được các ngành quan tâm, cơ bản đáp ứng kịp thời các trưng cầu giám định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và yêu cầu của cá nhân, tổ chức.

- Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh: Ngoài các phương tiện, thiết bị đã được trang bị trước đây như máy sắc ký khí và sắc ký khí khối phổ, kính hiển vi kim tương giám định kim loại, máy giám định tài liệu, máy xét nghiệm làm giải phẩu bệnh, máy quang phổ Hitachi UV-Vis… thì đã được trang bị thêm các thiết bị phục vụ công tác giám định ADN.

- Trung tâm Pháp y: Các trang thiết bị đáp ứng khoảng 70% điều kiện làm việc.

3.2. Tại các sở, ngành khác

Các sở, ngành đã được trang bị các trang thiết bị phục vụ công tác giám định tư pháp, tuy nhiên vẫn chưa đầy đủ. Hiện có các giám định viên thuộc lĩnh vực văn hóa đã được trang bị các thiết bị phục vụ cho công tác giám định như ti vi màu 21 inch, màn hình LCD, đầu đĩa kỹ thuật số 3 ngăn đĩa, máy cát-sét. Các giám định viên lĩnh vực khoa học và công nghệ được trang bị những thiết bị phục vụ công tác quản lý về an toàn bức xạ như: Máy đo bức xạ, các thiết bị ứng phó sự cố.

II. KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG GIÁM ĐỊNH.

Từ ngày 01/01/2020 đến 15/11/2020, đã thực hiện tổng số 4057 vụ việc (gồm 4053 vụ việc trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, 4 vụ việc theo yêu cầu của cá nhận, tổ chức khác), giảm 234 vụ việc so với năm 2019, trong đó:

- Trung tâm Pháp y: 519 vụ việc (giám định thương tích: 452 ca, tình dục: 47 ca, giám định tử thi: 1 ca, giám định hồ sơ: 19 ca);

- Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh: 3533 vụ việc (Giám định cơ học: 236 vụ, giám định cháy: 60 vụ, sự cố kỹ thuật: 55 vụ, tài liệu: 389 vụ, đường vân: 100 vụ, giám định hóa (ma túy): 726 vụ, giám định hóa (nồng độ cồn trong máu) 253 vụ, sinh vật:14 vụ, giám định vụ nổ: 03 vụ, giám định pháp y: 930 vụ, giám định số khung, số máy: 767 vụ);

- Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch: 01 vụ việc;

- Sở Giao thông vận tải: 01 vụ việc;

- Cục Thuế tỉnh: 02 vụ việc;

- Cục Hải quan tỉnh: 01 vụ việc.

III. CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁM ĐỊNH TƯ PHÁP

Sở Tư pháp với vai trò là cơ quan tham mưu giúp Ủy ban nhân dân tỉnh quản lý nhà nước về giám định tư pháp, đã thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:

- Tiếp tục công khai và giải quyết các thủ tục hành chính liên quan đến lĩnh vực giám định tư pháp thuộc phạm vi, thẩm quyền giải quyết của Sở Tư pháp như: thành lập văn phòng giám định tư pháp; Đăng ký hoạt động văn phòng giám định tư pháp... đúng pháp luật cho các cá nhân, tổ chức đến liên hệ thực hiện thủ tục. Thẩm định hồ sơ bổ nhiệm giám định viên tư pháp của các sở, ngành một cách nhanh chóng, kịp thời, hỗ trợ cung cấp các căn cứ pháp lý tạo thuận lợi nhất để công tác bổ nhiệm giám định viên tư pháp được nhanh chóng, đúng quy định. Trong năm 2020, Sở Tư pháp thẩm định hồ sơ bổ nhiệm cho 05 giám định viên tư pháp thuộc Công an tỉnh, Sở Y tế, Sở Tài chính để hoàn thiện hồ sơ bổ nhiệm giám định viên tư pháp theo quy định pháp luật.

- Về công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về giám định tư pháp: Sở Tư pháp đã chủ trì, phối hợp với các cơ quan tổ chức điểm cầu trực tuyến về Hội nghị trực tuyến toàn quốc triển khai Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp. Kết thúc hội nghị, Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương và các sở, ngành đã có những trao đổi, thảo luận và đề ra các giải pháp nhằm tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong hoạt động giám định tư pháp của tỉnh; đồng thời tiếp tục có những phương hướng hoạt động cụ thể trong thời gian tới nhằm ngày càng nâng cao chất lượng hoạt động giám định tư pháp trên địa bàn tỉnh.

- Về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị được Sở Tư pháp quan tâm, chú trọng. Trong năm 2020, không có phản ánh kiến nghị về giám định tư pháp.

- Về chế độ thông tin, báo cáo: Sở Tư pháp đăng tải công khai Danh sách cá nhân, tổ chức giám định tư pháp trên địa bàn tỉnh lên Trang thông tin điện tử của Sở. Các sở, ngành đa số thực hiện tốt chế độ báo cáo định kỳ và báo cáo đột xuất theo yêu cầu của Bộ Tư pháp, UBND tỉnh về công tác tổ chức và hoạt động giám định tư pháp.

IV. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ TÌNH HÌNH TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG GIÁM ĐỊNH TƯ PHÁP.

1. Thuận lợi:

- Các tổ chức giám định tư pháp tiếp nhận trưng cầu và thực hiện giám định đã đáp ứng kịp thời yêu cầu của các cơ quan tiến hành tố tụng, phục vụ tích cực cho công tác điều tra, xét xử. Các giám định viên đều đã được đào tạo, tập huấn đầy đủ về mặt chuyên môn nghiệp vụ, từ đó phục vụ tốt công tác giám định thuộc lĩnh chuyên môn theo quy định pháp luật.

- Về cơ sở vật chất được trang bị, máy móc, phương tiện phục vụ công tác giám định ngày càng hiện đại.

2. Khó khăn

Bên cạnh những kết quả đạt được tình hình hoạt động giám định tư pháp trên địa bàn tỉnh gặp phải những khó khăn, vướng mắc như sau:

- Giám định viên tại các sở, ngành đều là kiêm nhiệm, phải tập trung cho công tác chuyên môn nên không có nhiều thời gian nghiên cứu chuyên sâu kỹ năng và kiến thức pháp luật về giám định tư pháp. Trang thiết bị phục vụ cho công tác giám định tại các sở, ngành chưa được trang bị đầy đủ. Trong lĩnh vực giao thông, vận tải các giám định viên phải tự trang bị phương tiện hoạt động.

- Số lượng đội ngũ giám định viên tư pháp tuy được bổ sung hàng năm nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu phục vụ cho quá trình tố tụng.

V. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ:

- Bộ Tư pháp và các Bộ, ngành chuyên môn tiếp tục tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho người giám định tư pháp và tổ chức giám định tư pháp.

- Kiến nghị, đề xuất giải pháp tiếp tục thực hiện có hiệu quả chủ trương xã hội hóa hoạt động giám định tư pháp phù hợp với tình hình thực tế. Xây dựng cơ chế ưu đãi đối với các tổ chức giám định tư pháp ngoài công lập (ngoài việc miễn thuế của Trung ương thì có thể ưu đãi thêm các vấn đề khác như miễn thuế đất đai, tạo điều kiện vay tiền mua trang thiết bị, ...), mở rộng lĩnh vực thường phát sinh nhu cầu giám định tư pháp như giám định tài liệu, giám định chữ ký.

Hinh 2_BC GIAM DINH 2021.jpgHinh 3_BC GIAM DINH 2021.jpgHinh 4_BC GIAM DINH 2021.jpg

Thông tinFalseNguyễn Thị Vân Anh
 Kế hoạch triển khai thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp trên địa bàn tỉnh Bình Dương Tin Kế hoạch triển khai thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp trên địa bàn tỉnh Bình Dương /bo-tro-tu-phap/PublishingImages/2021-07/Hinh 1_KH Giam dinh 2020_Key_07072021102120.jpg
2/15/2021 11:00 AMNoĐã ban hành

Thực hiện Quyết định số 1450/QĐ-TTg ngày 24/9/2020 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp, ngày 05/2/2021, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Kế hoạch triển khai Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp trên địa bàn tỉnh.

​Kế hoạch đã đề ra các nội dung trọng tâm chính như sau:

1. Phổ biến, quán triệt nội dung và việc thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp.

Nội dung: Thực hiện giới thiệu, tuyên truyền, phổ biến nội dung của Luật bằng hình thức đăng tải trên Cổng/Trang thông tin điện tử của các cơ quan, tổ chức và địa phương.

2. Tổ chức rà soát các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành liên quan đến giám định tư pháp; đề xuất sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật để bảo đảm phù hợp với quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp.

3. Rà soát cập nhật, củng cố, phát triển đội ngũ cá nhân, tổ chức giám định tư pháp theo hướng gắn với nhu cầu giám định thực tế của hoạt động tố tụng và theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp.  

4. Phân công phòng, đơn vị làm đầu mối trong việc quản lý chung công tác giám định tư pháp ở từng lĩnh vực giám định tại các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh (làm đầu mối tham mưu, thống kê về giám định tư pháp).

5. Công an tỉnh phối hợp làm đầu mối trong việc quản lý chung công tác giám định tư pháp trong hoạt động tố tụng (làm đầu mối tham mưu, thống kê về giám định tư pháp trong hoạt động tố tụng). 

6. Tổ chức tập huấn về kiến thức pháp lý cho đội ngũ làm giám định tư pháp tại địa phương. 

7. Tăng cường kiểm tra, thanh tra tình hình tổ chức, hoạt động, quản lý giám định tư pháp ở địa phương; kiểm tra việc thực hiện trách nhiệm về giám định tư pháp của các cơ quan tiến hành tố tụng ở địa phương; các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh kiểm tra tình hình tổ chức, hoạt động giám định ở lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý.

8. Đánh giá công tác giám định tư pháp thuộc thẩm quyền quản lý; tôn vinh, khen thưởng tổ chức, cá nhân có đóng góp tích cực trong hoạt động giám định tư pháp.

Hinh 1_KH Giam dinh 2020.jpgHinh 2_KH Giam dinh 2020.jpgHinh 3_KH Giam dinh 2020.jpg


Thông tinFalseNguyễn Thị Vân Anh
Danh sách cá nhân, tổ chức giám định tư pháp trên địa bàn tỉnh Bình Dương năm 2020TinDanh sách cá nhân, tổ chức giám định tư pháp trên địa bàn tỉnh Bình Dương năm 2020/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
1/15/2021 10:00 AMNoĐã ban hànhDanh sách; Thông tinFalseNguyễn Thị Vân Anh
TÀI LIỆU HỘI NGHỊ TRỰC TUYẾN TRIỂN KHAI LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT GIÁM ĐỊNH TƯ PHÁPTinTÀI LIỆU HỘI NGHỊ TRỰC TUYẾN TRIỂN KHAI LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT GIÁM ĐỊNH TƯ PHÁP/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
12/17/2020 11:00 AMNoĐã ban hànhThông tinFalsePhòng Bổ trợ Tư pháp
Một số nội dung mới của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giám định tư phápBài viếtMột số nội dung mới của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giám định tư pháp/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg

Sau hơn 7 năm thi hành Luật giám định tư pháp, công tác giám định tư pháp đã đạt được nhiều kết quả. Tuy nhiên, Luật này cũng đã bộc lộ nhiều bất cập trước những yêu cầu mới của đời sống xã hội, của hoạt động tố tụng. Trước yêu cầu thực tiễn của công tác giám định tư pháp và đặc biệt để đáp ứng yêu cầu đấu tranh, phòng, chống tham nhũng trong tình hình mới, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giám định tư pháp đã được Quốc hội khóa XIV thông qua ngày 10 tháng 6 năm 2020 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/1/2021.
6/12/2020 7:00 PMNoĐã ban hành

Dự án Luật đã sửa đổi, bổ sung các điều, khoản cụ thể như sau:

- Bổ sung 01 điều (Điều 26a về thời hạn giám định);

- Sửa đổi, bổ sung 08 điều (Điều 10; Điều 20; Điều 24; Điều 25; Điều 31; Điều 32; Điều 36; Điều 41);

- Bổ sung 04 khoản; sửa đổi, bổ sung 22 khoản; bổ sung 04 điểm và sửa đổi, bổ sung 09 điểm.

Những nội dung cơ bản được sửa đổi, bổ sung

1. Phạm vi của giám định tư pháp

Để bảo đảm tính thống nhất với quy định của pháp luật tố tụng và đáp ứng nhu cầu giám định của hoạt động tố tụng, phạm vi giám định tư pháp đã được sửa đổi theo hướng mở rộng đến cả giám định được trưng cầu, thực hiện ngay từ giai đoạn "khởi tố", thay vì từ giai đoạn điều tra vụ án hình sự như quy định hiện hành (khoản 1 Điều 2).

2. Hồ sơ, thẩm quyền, trình tự, thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm giám định viên tư pháp gắn với việc cấp, thu thẻ giám định viên tư pháp

Để khắc phục tình trạng bất cập, rườm rà về thủ tục hành chính trong quá trình làm hồ sơ bổ nhiệm giám định viên tư pháp đối với người đang là công chức, viên chức, sĩ quan trong lực lượng vũ trang, Luật sửa đổi, bổ sung đã bổ sung quy định: "Trường hợp người được đề nghị bổ nhiệm giám định viên tư pháp đang là công chức, viên chức, sĩ quan quân đội, sĩ quan công an nhân dân, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng thì không cần có Phiếu lý lịch tư pháp." (khoản 3 Điều 8).
Do có bổ sung tổ chức giám định công lập là Phòng giám định kỹ thuật hình sự thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao, nên Luật có quy định Viện kiểm sát nhân dân tối cao có trách nhiệm lựa chọn người có đủ tiêu chuẩn để đề nghị Bộ trưởng Bộ Công an bổ nhiệm giám định viên kỹ thuật hình sự thuộc cơ quan mình và tương tự như vậy, Viện kiểm sát nhân dân tối cao xem xét, đề nghị Bộ trưởng Bộ Công an miễn nhiệm giám định viên tư pháp thuộc cơ quan mình cho bảo đảm nguyên tắc thẩm quyền quản lý về lĩnh vực giám định kỹ thuật hình sự của Bộ Công an (khoản 2 Điều 9 và khoản 3 Điều 10). 

Để góp phần bảo đảm điều kiện thuận lợi cho giám định viên trong quá trình hoạt động giám định, nhất là tham gia tố tụng với tư cách là người giám định tư pháp, Luật đã bổ sung quy định về cấp thẻ cho người được bổ nhiệm giám định viên tư pháp và thu hồi thẻ khi miễn nhiệm với nguyên tắc: người có thẩm quyền bổ nhiệm giám định viên tư pháp thì thẩm quyền cấp (cấp mới, cấp lại) thẻ giám định viên tư pháp; việc cấp thẻ giám định viên tư pháp được thực hiện theo hướng dẫn của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về mẫu thẻ, trình tự, thủ tục cụ thể (khoản 4 Điều 9).

Luật đã bổ sung một số trường hợp miễn nhiệm giám định viên tư pháp trong trường hợp: (1) có quyết định nghỉ hưu hoặc quyết định thôi việc, trừ trường hợp có văn bản thể hiện nguyện vọng tiếp tục tham gia hoạt động giám định tư pháp và cơ quan, tổ chức quản lý trực tiếp có nhu cầu sử dụng phù hợp với quy định của pháp luật; (2) chuyển đổi vị trí công tác hoặc chuyển công tác sang cơ quan, tổ chức khác mà không còn điều kiện phù hợp để tiếp tục thực hiện giám định tư pháp; (3) theo đề nghị của giám định viên tư pháp, nhưng đối với giám định viên tư pháp là công chức, viên chức, sĩ quan quân đội, sĩ quan công an nhân dân, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng thì phải được sự chấp thuận của cơ quan, tổ chức quản lý trực tiếp; (4) giám định viên tư pháp được bổ nhiệm để thành lập Văn phòng giám định tư pháp nhưng không thành lập Văn phòng hoặc thành lập Văn phòng rồi mà không đăng ký hoạt động, cho cụ thể, đầy đủ và sát thực tế hơn (điểm đ, điểm e, điểm g và điểm h khoản 1 Điều 10).

3. Bổ sung tổ chức giám định công lập trong lĩnh vực kỹ thuật hình sự
Để góp phần bảo đảm đáp ứng kịp thời yêu cầu giám định về âm thanh, hình ảnh từ các dữ liệu điện tử được thu thập ngày càng tăng mạnh trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử các vụ án nói chung và các vụ án tham nhũng, kinh tế nói riêng, Luật đã có quy định về "Phòng giám định hình sự thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao" (tại khoản 5 Điều 12). Đây là tổ chức giám định tư pháp công lập mới có tính chất đặc thù, được bổ sung vào hệ thống tổ chức giám định kỹ thuật hình sự. Do đó, Luật cũng đã có quy định "Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Phòng giám định kỹ thuật hình sự thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao sau khi thống nhất ý kiến với Bộ trưởng Bộ Tư pháp, trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn" (khoản 7 Điều 12).

4. Công nhận và đăng tải danh sách người, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc

Để khắc phục bất cập của quy định hiện hành và phát huy vai trò, trách nhiệm của Cơ quan thuộc Chính phủ trong việc bảo đảm đáp ứng yêu cầu giám định của thực tiễn hoạt động tố tụng, Luật đã bổ sung Cơ quan thuộc Chính phủ trong việc lựa chọn cá nhân, tổ chức có đủ tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định của pháp luật (Điều 18 và Điều 19) để ra quyết định công nhận, đăng tải, rà soát, cập nhật danh sách người giám định tư pháp theo vụ việc, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc trên cổng thông tin điện tử của cơ quan mình, đồng thời gửi Bộ Tư pháp để lập danh sách chung, tương tự như các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về vấn đề này.

Bên cạnh đó, Luật cũng đã bổ sung quy định: trong trường hợp đặc biệt, theo yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thì Cơ quan thuộc Chính phủ, Kiểm toán nhà nước, cơ quan trung ương đóng trên địa bàn cấp tỉnh có trách nhiệm giới thiệu cá nhân, tổ chức có đủ tiêu chuẩn, điều kiện (quy định tại Điều 18 và Điều 19 của Luật này) thực hiện giám định ngoài danh sách đã được công bố ((khoản 2 Điều 20). Đây là quy định mới nhằm huy động các chuyên gia giỏi ở các cơ quan này tham gia hoạt động giám định tư pháp để góp phần bảo đảm đáp ứng kịp thời, có chất lượng yêu cầu của hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án nói chung, án tham nhũng kinh tế nói riêng.

5. Quyền và nghĩa vụ của giám định viên tư pháp, người giám định tư pháp theo vụ việc; người giám định tư pháp khi thực hiện giám định

Để bảo đảm điều kiện cho người giám định tư pháp có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ giám định của mình, Luật đã: (1) bổ sung quyền và nghĩa vụ của giám định viên tư pháp khi từ chối tiếp nhận trưng cầu, yêu cầu thực hiện giám định trong trường hợp nội dung trưng cầu, yêu cầu giám định không phù hợp với phạm vi chuyên môn hoặc không có đủ năng lực, điều kiện cần thiết cho việc thực hiện giám định; đối tượng giám định, tài liệu liên quan được cung cấp không đầy đủ hoặc không có giá trị để kết luận giám định sau khi đã đề nghị người trưng cầu, người yêu cầu giám định bổ sung, làm rõ nhưng không được đáp ứng; thời gian không đủ để thực hiện giám định; tính độc lập, khách quan của việc thực hiện giám định không được bảo đảm (khoản 2 Điều 11). Tương ứng, người giám định tư pháp theo vụ việc cũng được bổ sung thêm các quyền và nghĩa vụ này vì khoản 3 Điều 18 đã dẫn chiếu quy định này; (2) bổ sung quyền của người giám định tư pháp khi thực hiện giám định như đề nghị người trưng cầu giám định hoặc cơ quan có thẩm quyền thực hiện biện pháp bảo vệ theo quy định của pháp luật khi có dấu hiệu bị đe dọa đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của bản thân hoặc người thân thích do việc thực hiện giám định, tham gia vụ án, vụ việc với tư cách là người giám định; từ chối thực hiện giám định tư pháp trong trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 11 nêu trên và quyền được bố trí vị trí phù hợp khi tham gia tố tụng tại phiên tòa (điểm d, điểm đ, điểm e khoản 1 Điều 23).

Ngoài ra, Luật còn sửa đổi, bổ sung các nội dung về

- Nghĩa vụ của người trưng cầu giám định;

- Trưng cầu giám định tư pháp;

- Thời hạn giám định;

- Kết luận giám định;

- Hồ sơ giám định;

- Nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đối với công tác giám định tư pháp;

- Trách nhiệm của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đối với công tác giám định tư pháp.

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp được thông qua đã khắc phục những bất cập, hạn chế của Luật Giám định tư pháp năm 2013, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt động giám định tư pháp, một trong nhưng công tác quan trọng trong quá trình đấu tranh phòng, chống tội phạm và hoạt động tố tụng trong thời gian tới.

Thông tinFalseNguyễn Thị Vân Anh
Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư phápTinQuốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
6/10/2020 7:00 PMNoĐã ban hành

Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp
Thực hiện Chương trình Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XIV, chiều 10/6, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp (GĐTP) được 449 đại biểu tán thành, tương đương 92,96% tổng số đại biểu Quốc hội.
Trước đó, các đại biểu Quốc hội đã biểu quyết thông qua 3 điều trong dự án Luật gồm: Điều 12, 25, 26A với tỷ lệ tán thành cao. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật GĐTP sửa đổi, bổ sung 26 điều, chỉnh lý kỹ thuật 3 điều, có hiệu lực từ ngày 1/1/2021.
Trình bày Báo cáo giải trình tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật GĐTP trình Quốc hội biểu quyết thông qua, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội Lê Thị Nga cho biết: nhiều ý kiến tán thành việc bổ sung quy định "Phòng giám định kỹ thuật hình sự thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao" tại Điều 12 dự thảo Luật; một số ý kiến đề nghị giữ quy định Điều 12 như Luật hiện hành.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội cho tiếp thu theo đa số ý kiến các vị đại biểu Quốc hội. Theo đó, bổ sung "Phòng giám định kỹ thuật hình sự thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao" là tổ chức GĐTP công lập về kỹ thuật hình sự với nhiệm vụ giám định về âm thanh, hình ảnh từ các dữ liệu điện tử (tại khoản 4 và khoản 5 Điều 12 dự thảo Luật). 
Vấn đề này đã được cân nhắc kỹ trên cơ sở thực tiễn hoạt động tố tụng, nhằm đáp ứng yêu cầu công tác điều tra, xử lý tội phạm về tham nhũng, tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp. Đồng thời, tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo chỉnh lý các nội dung liên quan tại khoản 2 Điều 9, khoản 3 Điều 10, khoản 7 Điều 12 và khoản 6 Điều 44 của dự thảo Luật. 
Về trưng cầu giám định trong trường hợp cần có sự phối hợp giữa nhiều cơ quan, tổ chức giám định (Điều 25), có ý kiến tán thành với quy định tại khoản 4 Điều 25 về giao trách nhiệm cho một cơ quan, tổ chức chuyên môn về GĐTP chủ trì việc thực hiện giám định; có ý kiến đề nghị chỉnh lý giao trách nhiệm này cho người trưng cầu GĐTP.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy, GĐTP là hoạt động chuyên môn, khoa học, do đó, quá trình tiến hành giám định phải do chính cơ quan, tổ chức chuyên môn trong lĩnh vực GĐTP thực hiện. Nếu giao cho cơ quan trưng cầu giám định (cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng) chủ trì, phối hợp việc thực hiện GĐTP sẽ không bảo đảm tính độc lập, khách quan và không phù hợp với tính chất của hoạt động này. 
Vì vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội cho giữ quy định về giao trách nhiệm cho một trong các cơ quan, tổ chức thực hiện GĐTP làm đầu mối tổ chức việc giám định như dự thảo Luật.
Về thời hạn giám định (Điều 26a), có ý kiến cho rằng, thời hạn giám định quy định tại khoản 3 (thời hạn tối đa 3 tháng, trường hợp đặc biệt là 4 tháng) chưa rõ ràng, cần quy định cụ thể để bảo đảm sự thống nhất. Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy, đối với trường hợp giám định theo vụ việc thì ở từng lĩnh vực giám định như đầu tư, tài chính, ngân hàng, xây dựng, giao thông, khoa học và công nghệ... do quy chuẩn chuyên môn và quy trình thực hiện hoàn toàn khác nhau nên thời hạn giám định cũng không thể giống nhau. 
Để bảo đảm tính khả thi, Luật GĐTP chỉ quy định thời hạn tối đa, còn thời hạn ở từng lĩnh vực chuyên môn được giao cho bộ, cơ quan ngang bộ quản lý lĩnh vực quy định cụ thể. Vì vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị cho giữ quy định thời hạn GĐTP như dự thảo Luật.
H.Thư
                                                                                         (Trích từ Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp)

 

Thông tinFalsePhòng Bổ trợ Tư pháp
Danh sách Giám định viên tư pháp bổ nhiệm trong năm 2020 (Cập nhật đến ngày 20/5/2020)TinDanh sách Giám định viên tư pháp bổ nhiệm trong năm 2020 (Cập nhật đến ngày 20/5/2020)/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
5/20/2020 4:00 PMNoĐã ban hành
Danh sáchFalsePhòng Bổ trợ Tư pháp
Danh sách Tổ chức Giám định tư pháp năm 2020Danh sách Tổ chức Giám định tư pháp năm 2020/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
4/20/2020 4:00 PMNoĐã ban hành
Danh sáchFalsePhòng Bổ trợ Tư pháp
Danh sách Giám định viên tư pháp (Cập nhật đến ngày 20/4/2020)Danh sách Giám định viên tư pháp (Cập nhật đến ngày 20/4/2020)/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
4/20/2020 4:00 PMNoĐã ban hành
Danh sáchFalsePhòng Bổ trợ Tư pháp
Danh sách Người Giám định tư pháp theo vụ việc (Cập nhật đến ngày 20/4/2020)Danh sách Người Giám định tư pháp theo vụ việc (Cập nhật đến ngày 20/4/2020)/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
4/20/2020 4:00 PMNoĐã ban hành
Danh sáchFalsePhòng Bổ trợ Tư pháp
Sở Y tế tỉnh Bình Dương ban hành Quyết định số 222/QĐ-SYT về việc Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Trung tâm Pháp y tỉnh Bình DươngTinSở Y tế tỉnh Bình Dương ban hành Quyết định số 222/QĐ-SYT về việc Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Trung tâm Pháp y tỉnh Bình Dương/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
3/15/2020 9:00 AMNoĐã ban hành

Trung tâm Pháp y tỉnh Bình Dương được thành lập bởi Quyết định số 4455/QĐ-UBND ngày 30/12/2014 của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc thành lập Trung tâm pháp y tỉnh Bình Dương.

Qua quá trình hoạt động, ngày 09/3/2020, Sở Y tế tỉnh Bình Dương ban hành Quyết định số 222/QĐ-SYT về việc Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Trung tâm Pháp y tỉnh Bình Dương, thay thế Quyết định số 1132/QĐ-SYT ngày 09/11/2016 của Sở Y tế tỉnh Bình Dương.

Theo nội dung Quyết định, Trung tâm Pháp y có cơ cấu tổ chức gồm 01 Phòng Tổ chức hành chính – Kế toán và 01 Khoa chuyên môn là Khoa Pháp y. Mỗi phòng gồm 01 trưởng phòng, 01 phó trưởng phòng. Mỗi Khoa gồm 01 trưởng khoa, 01 Phó trưởng khoa.

Về chức năng: Trung tâm có chức năng tổ chức thực hiện giám định pháp y trên địa bàn tỉnh; nghiên cứu khoa học và tham gia đào tạo, đào tạo bồi dưỡng trong lĩnh vực pháp y.

Trung tâm có 9 nhiệm vụ, trong đó có các nhiệm vụ chính là: Thực hiện công tác giám định pháp y trên địa bàn tỉnh, nghiên cứu và tham gia nghiên cứu ứng dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật về chuyên ngành pháp y.​


Thông tinFalseNguyễn Thị Vân Anh
Ủy ban Tư pháp của Quốc hội tổ chức Hội thảo “Một số định hướng lớn của dự án Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp”TinỦy ban Tư pháp của Quốc hội tổ chức Hội thảo “Một số định hướng lớn của dự án Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp”/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
8/20/2019 1:00 PMNoĐã ban hành

Trong 02 ngày 12-13/8/2019, tại TP. Quy Nhơn, tỉnh Bình Định, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội đã tổ chức Hội thảo “Một số định hướng lớn của dự án Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp”. Ông Nguyễn Công Hồng – Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội chủ trì Hội thảo. Tham dự Hội thảo còn có các vị Đại biểu của Quốc hội, các luật gia, chuyên gia, đại biểu đến từ các bộ, ngành ở Trung ương và đại diện Văn phòng Đoàn Đại biểu Quốc hội, lãnh đạo sở, ngành của các tỉnh, thành phố trong cả nước.
Tại Hội thảo, sau khi nghe báo cáo thực tiễn công tác quản lý nhà nước về giám định tư pháp từ năm 2013 đến nay và định hướng sửa đổi, bổ sung Luật Giám định tư pháp của Cục Bổ trợ tư pháp, Bộ Tư pháp, các đại biểu đã tập trung trao đổi, thảo luận về những hạn chế, khó khăn, vướng mắc về cơ chế, chính sách, pháp luật và nguyên nhân; đồng thời kiến nghị những giải pháp đối với hoạt động giám định pháp và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của Viện Pháp y Quốc gia, Viện Pháp y tâm thần Trung ương từ năm 2013 đến nay; công tác trưng cầu giám định tư pháp trong quá trình điều tra các vụ án tham nhũng, kinh tế, buôn lậu; công tác quản lý nhà nước về giám định tư pháp và hoạt động giám định tư pháp của các bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền cấp tỉnh; công tác trưng cầu giám định tư pháp trong hoạt động điều tra của cơ quan Công an các cấp…
Phát biểu tại Hội thảo, ông Nguyễn Công Hồng – Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội nhấn mạnh: “Hội thảo có ý nghĩa quan trọng đối với việc hoàn thiện dự án Luật trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội vào tháng 9 tới. Hội thảo sẽ là diễn đàn để các vị đại biểu Quốc hội, đại diện các cơ quan tư pháp, các chuyên gia, nhà khoa học và cán bộ làm công tác thực tiễn trao đổi, phân tích, đánh giá, góp ý trực tiếp vào các nội dung cụ thể của dự án Luật. Trong đó, có nhiều nội dung sửa đổi, bổ sung cần đặt trong tổng thể Chiến lược cải cách tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, nhất là pháp luật về tố tụng, đáp ứng yêu cầu cấp thiết hiện nay trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, phòng, chống tham nhũng”.
Luật Giám định tư pháp số 13/2012/QH13 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 20/6/2012.  Theo Nghị quyết số 78/2019/QH14 ngày 11/6/2019 của Quốc hội khóa XIV về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2020, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2019, dự án Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp đã được Quốc hội bổ sung vào Chương trình năm 2019 và sẽ được trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 8 (tháng 10/2019)./.
                                                                                              Mỹ Cẩm
(Nguồn Cổng Thông tin điện tử Bộ Tư pháp: http://bttp.moj.gov.vn/qt/gdtp/Pages/tin-nong.aspx?ItemID=191​)
Thông tinFalseNguyễn Thị Vân Anh
Một số kinh nghiệm nước ngoài trong lĩnh vực giám định, công chứng, thừa phát lại có thể tham khảo tại Việt NamTinMột số kinh nghiệm nước ngoài trong lĩnh vực giám định, công chứng, thừa phát lại có thể tham khảo tại Việt Nam/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
7/20/2019 2:00 PMNoĐã ban hành

1. Lĩnh vực giám định tư pháp
1.1. Về khái niệm giám định tư pháp
Quan niệm chung của các nước về giám định tư pháp là giám định được thực hiện bởi nhà chuyên môn (người am hiểu, tinh thông về lĩnh vực cần giám định) để làm sáng tỏ vấn đề có liên quan, theo trưng cầu của cơ quan điều tra, truy tố và xét xử đến vụ án dưới góc độ chuyên môn nhằm phục vụ cho việc giải quyết vụ án. Chẳng hạn như: (1) ở Pháp có quy định rất rõ rằng việc giám định được thực hiện theo trưng cầu của thẩm phán (có thẩm phán điều tra, thẩm phán xét xử và thẩm phán thi hành án) thì được coi là giám định tư pháp; (2) pháp luật của Thụy Điển lại cho rằng, chỉ cần xác định việc giám định đó có được đánh giá và sử dụng làm căn cứ cho việc giải quyết vụ án hay không, nếu kết luận giám định nào phù hợp với các chứng cứ khác của vụ án và được Hội đồng xét xử chấp nhận làm căn cứ để giải quyết vụ án thì được coi là giám định tư pháp.
1.2. Về khái niệm người giám định
Nhìn chung, các nước đều quan niệm, bất kỳ một chuyên gia nào không phân biệt là công chức nhà nước hay người hành nghề tự do đều có thể là người giám định nếu như người đó thực sự am hiểu, tinh thông trong lĩnh vực cần giám định và được các cơ quan tiến hành tố tụng trưng cầu giám định.        Tuy nhiên, hầu hết các nước đều có phân loại người giám định thành giám định viên (người được cơ quan hoặc tổ chức có thẩm quyền bổ nhiệm hoặc công nhận và ghi danh) và người giám định vụ việc.
1.3. Căn cứ bổ nhiệm, công nhận giám định viên và tiêu chuẩn giám định viên
Việc bổ nhiệm, công nhận giám định viên của các nước đều phải căn cứ vào nhu cầu thực tế của hoạt động tố tụng. Trình tự, thủ tục bổ nhiệm hoặc công nhận giám định viên được tiến hành rất chặt chẽ nhằm bảo đảm chất lượng giám định viên.
Mặc dù, có sự khác nhau về cách thức, thủ tục bổ nhiệm hoặc công nhận, ghi danh giám định viên giữa các nước nhưng các tiêu chí về điều kiện để trở thành giám định viên của các nước về cơ bản là giống nhau. Cụ thể là các điều kiện về: trình độ chuyên môn và khả năng nghiệp vụ (hầu hết các nước còn yêu cầu người được bổ nhiệm hoặc công nhận phải qua đào tạo nghiệp vụ giám định của từng lĩnh vực); kinh nghiệm thực tế; điều kiện về sức khoẻ; về phẩm chất; thời gian và những điều kiện cần thiết cho việc tham gia hoạt động giám định tư pháp.
1.4. Danh sách giám định viên và việc lựa chọn người giám định của cơ quan tiến hành tố tụng
Hầu hết các nước đều lập Danh sách người giám định hoặc các nhà chuyên môn ở các lĩnh vực và phổ biến cho các cơ quan tiến hành tố tụng biết để trưng cầu giám định. Chẳng hạn như, ở Đức, ngoài lĩnh vực pháp y, pháp y tâm thần, kỹ thuật hình sự có giám định viên là các cán bộ chuyên môn nhà nước, còn ở các lĩnh vực khác thì các tổ chức, hiệp hội nghề nghiệp như Phòng Thủ công nghiệp, Phòng thương mại, Phòng xây dựng,... lựa chọn người để lập, công bố danh sách giám định viên ở các lĩnh vực ngành nghề đó để phổ biến cho các cơ quan tiến hành tố tụng. Ở Pháp, Toà án là cơ quan có thẩm quyền lựa chọn và công nhận, lập Danh sách giám định viên ở tất cả các lĩnh vực chuyên môn, ngành nghề.
Nhìn chung pháp luật các nước không bắt buộc các cơ quan tiến hành tố tụng phải trưng cầu giám định viên được bổ nhiệm hoặc công nhận nhưng một số nước đã có quy định trong pháp luật tố tụng mang tính khuyến nghị cơ quan tiến hành tố tụng ưu tiên trưng cầu các giám định viên đã có trong danh sách.
1.5. Về tổ chức giám định
Các nước không thành lập hệ thống tổ chức giám định tư pháp ở tất cả các lĩnh vực. Tuy nhiên, tất cả các nước đều có cơ quan giám định pháp y (chỉ về tử thi), pháp y tâm thần và kỹ thuật hình sự theo hệ thống tổ chức của cơ quan tiến hành tố tụng. Riêng về giám định kỹ thuật hình sự, thì tất cả các nước trên thế giới đều duy trì tổ chức giám định kỹ thuật hình sự trong cơ quan cảnh sát. Hầu hết các nước đều đặt giám định pháp y ở cơ quan y tế. Còn ở các lĩnh vực khác, các nước không thành lập tổ chức mà chỉ bổ nhiệm hoặc công nhận và lập Danh sách giám định viên.
1.6. Về hoạt động giám định tư pháp
Về trưng cầu giám định tư pháp: Theo quy định của pháp luật các nước, chỉ có cơ quan tiến hành tố tụng (cơ quan điều tra, truy tố và xét xử) mới có quyền trưng cầu giám định tư pháp cả trong tố tụng hình sự và tố tụng dân sự. Tuy nhiên, thông thường thì trong án hình sự thì việc trưng cầu giám định chủ yếu do cơ quan điều tra thực hiện. Còn trong tố tụng dân sự thì các bên có quyền tự do lựa chọn giám định viên và có thể yêu cầu Toà án đứng ra trưng cầu giám định hoặc tự họ thoả thuận với nhau về việc mời một người giám định nào đó.
Về đánh giá, sử dụng kết luận giám định: Pháp luật của các nước quy định kết luận giám định là một nguồn chứng cứ. Việc đánh giá và sử dụng chứng cứ thuộc thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng. Vì thế, việc đánh giá và sử dụng kết luận giám định thuộc thẩm quyền và trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng.
Nếu có sự khác nhau thì cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm xem xét, đánh giá độ tin cậy của các kết luận giám định đó.
Pháp luật của các nước không có quy định về giám định cuối cùng vì việc có cần trưng cầu giám định hay không là tuỳ thuộc sự cần thiết trong quá trình giải quyết vụ án. Tuy nhiên, với hoạt động giám định của các nước thì rất nề nếp, chặt chẽ, chất lượng, cộng với cách thức đánh giá kết luận giám định như đã nêu trên nên ít có mâu thuẫn kết luận giám định và nếu có thì đều được cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết thoả đáng, hầu như không có khiếu kiện và không phải trưng cầu giám định nhiều lần.
2. Lĩnh vực công chứng
2.1. Khái niệm công chứng
Nhìn chung các nước đều quy định công chứng là hoạt động của cơ quan công chứng xác nhận tính xác thực và tính hợp pháp của các hành vi pháp lý dân sự, sự kiện pháp lý và các văn bản pháp lý theo các trình tự quy định của pháp luật.
2.2. Chức năng của công chứng
Hệ thống công chứng có hai chức năng chính. Thứ nhất là để ngăn chặn các tranh chấp pháp lý: việc chuẩn bị các văn bản công chứng mang lại bằng chứng rõ ràng liên quan đến các quyền lợi hợp pháp và giúp ngăn chặn tranh chấp pháp lý. Thứ hai là để giải quyết các tranh chấp pháp lý: các văn bản công chứng đáp ứng được những yêu cầu nhất định sẽ cấu thành văn bản quy phạm có hiệu lực thi hành hoặc là cơ sở để một bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết khi một bên không thực hiện nghĩa vụ của mình.   
2.3. Căn cứ để thực hiện công chứng
Pháp luật của nhiều nước có quy định tương đối thống nhất về vấn đề này, đó là có hai căn cứ để thực hiện việc công chứng: công chứng theo yêu cầu và công chứng bắt buộc. Theo đó, một số loại hợp đồng, giao dịch sẽ bắt buộc phải công chứng, số còn lại thì được thực hiện trên cơ sở tự nguyện.
Pháp luật Tây Ban Nha quy định một số hợp đồng, giao dịch nhất định phải bắt buộc phải công chứng, nếu không qua thủ tục công chứng thì hợp đồng không có hiệu lực thi hành, như hợp đồng hôn nhân, hợp đồng liên quan đến tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, tặng cho tài sản… được quy định rõ trong Bộ Luật dân sự để bảo đảm an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch. Tương tự như vậy, tại Nhật Bản các hợp đồng cho thuê thương mại hoặc sắp xếp giám hộ tự nguyện phải được CCV soạn thảo và chứng nhận thì mới có giá trị pháp lý và tính ràng buộc.
Tuy nhiên, ngoài các hợp đồng bắt buộc phải công chứng, các hợp đồng, giao dịch khác do sự tự nguyện của người dân (hợp đồng tùy nghi) thì văn bản công chứng sẽ không được Tòa án coi là một chứng cứ hiển nhiên mà chỉ coi đó là một sự kiện pháp lý. Trung Quốc là một trong các nước đi theo hướng quy định này.
2.4. Về công chứng viên
Về khái niệm: Mặc dù cách thể hiện khác nhau, song về cơ bản công chứng viên (sau đây gọi tắt là CCV) được hiểu là viên chức công được bổ nhiệm để lập các hợp đồng và văn bản mà theo đó các bên phải hoặc muốn đảm bảo tính xác thực của văn bản đó giống như văn bản của các cơ quan công quyền khác và đảm bảo việc lưu giữ, cấp bản sao của văn bản đó (Pháp, Đức, Ba Lan, Tây Ban Nha...)
Về chức năng: Về chức năng cơ bản, CCV có chức năng soạn thảo chứng thư liên quan đến kiện tụng hoặc luật tư pháp, chứng nhận giấy chứng nhận cá nhân và các giấy tờ số và xử lý các trường hợp theo quy định của Luật này và các quy định khác.
  Pháp luật công chứng của Pháp ghi nhận CCV là các công chức được Bộ trưởng Bộ tư pháp bổ nhiệm, vì thế CCV được trao cho công quyền. CCV là người hợp thức hóa thỏa thuận của các bên và có thẩm quyền đóng con dấu xác thực vào toàn bộ các văn bản mà mình tiếp nhận. CCV cũng đảm bảo lưu giữ toàn bộ các dự thảo biên bản. Ngoài chức năng xác thực tính hợp lệ và bảo đảm an toàn cho các văn bản nói trên, các CCV còn có thể can thiệp với phạm vi rộng hơn: họ là các chuyên gia về pháp luật tổng quát với một tầm nhìn tổng thể về các vấn đề pháp lý. Họ có thể can thiệp vào khuôn khổ pháp lý nói chung và khuôn khổ pháp lý về thuế, điều đó khiến họ trở nên đặc biệt hiệu quả trong việc tư vấn cho khách hàng của mình. Do đó, các CCV có thể được mô tả là các "bác sĩ về tài sản".
Tại Đức, CCV là công chức do nhà nước bổ nhiệm, chuyên tư vấn một cách độc lập, trung lập và khách quan cho các giao dịch pháp lý quan trọng. CCV đóng vai trò then chốt trong luật về bất động sản, luật thế chấp, luật về hợp đồng, luật công ty cũng như các luật khác về gia đình và thừa kế.
Theo quy định của Tây Ban Nha, CCV là công chức có thẩm quyền cung cấp bằng chứng (niềm tin công chúng) theo quy định của pháp luật về các hợp đồng và các hoạt động ngoại tụng khác. Để thực hiện vai trò này, CCV là một người hành nghề luật độc lập, có nhiệm vụ đánh giá một cách công tâm không thiên vị những người yêu cầu cung cấp dịch vụ và tư vấn cho họ những công cụ pháp lý phù hợp nhất để đạt được kết quả hợp pháp mà họ mong muốn. Sau đó, CCV có thẩm quyền hành động và chứng từ hóa toàn bộ các tình tiết, hành vi và nói chung là mọi hoạt động kinh doanh hợp pháp trong phạm vi luật pháp ngoài tố tụng. Như vậy, có thể thấy rằng không có loại công chức nào khác có thể hành động với phạm vi rộng như CCV trong các lĩnh vực vừa nêu.
Tại Tây Ban Nha và rất nhiều nước khác, CCV được đặt dưới sự quản lý chặt chẽ của Bộ Tư pháp và được coi như công chức dù không hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Nói cách khác, CCV là một công chức đặc biệt vì CCV do nhà nước bổ nhiệm nhưng lại hành nghề với tư cách tự do (tự hành nghề, tự đầu tư cơ sở vật chất, tự nuôi bộ máy giúp việc, thu nhập từ nguồn khách hàng…) mà vẫn phải tuân theo quy định của Nhà nước, đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ của nhà nước.
Về vai trò của công chứng viên:
 Hệ thống công chứng của Pháp, Tây Ban Nha, Đức và Trung Quốc quy định CCV có vai trò "thẩm phán hợp đồng", công lý phòng ngừa. Bốn hệ thống pháp luật này mang lại giá trị chứng minh và hiệu lực thi hành cho văn bản công chứng, điều này rất quan trọng đối với hòa bình xã hội vì chúng mang đến cho người dân sự đảm bảo về pháp luật cho tất cả các thủ tục dân sự cần thiết: hôn nhân, thừa kế, quyền sở hữu đất và thành lập kinh doanh. CCV không chỉ soạn văn bản mà còn là nhân chứng có đặc quyền của văn bản công chứng được các bên nhất trí. CCV cũng không phải là nhân viên tư vấn của một bên để gây thiệt hại cho bên kia mà là chuyên gia khách quan và không thiên vị để lập ra những hợp đồng công bằng vì lợi ích của tất cả mọi người. Về quyền sở hữu, CCV đảm bảo sự an toàn gần như tuyệt đối cho người nắm giữ quyền này. Nhờ đó, ở các nước phương Tây, các tranh chấp về quyền sở hữu gần như không tồn tại.
Ở Nhật Bản và Hàn Quốc, hệ thống công chứng đem lại cho CCV vai trò của nhân chứng và cán bộ chứng nhận. Họ chỉ có quyền yêu cầu thi hành nghĩa vụ trả tiền.
Về tiêu chuẩn công chứng viên:
Tuy có những điểm khác nhau về thể chế, hầu hết các nước đều công nhận công chứng là một nghề rất khó. CCV đều là những nhà luật học giỏi, là những chuyên gia pháp luật, có kiến thức pháp lý sâu rộng và biết cách áp dụng pháp luật nhuần nhuyễn, linh hoạt. Do vậy, việc gia nhập đội ngũ CCV là một quy trình có tính cạnh tranh rất cao; tương tự như các lĩnh vực dịch vụ công khác, việc lựa chọn các ứng viên tốt nhất là quá trình cực kỳ nghiêm ngặt (Đức, Pháp, Tây Ban Nha, Trung Quốc...).
Do thống nhất quan điểm về nghề công chứng, pháp luật các nước có khá nhiều điểm tương đồng trong quy định về tiêu chuẩn CCV. Cụ thể CCV phải là công dân của nước đó, có nhân cách và năng lực phù hợp với chức danh, đã trải qua khoá đào tạo nghề dài và chuyên sâu, hoàn thành thời gian tập sự hành nghề công chứng và vượt qua kỳ thi tuyển CCV.
Để khẳng định vị trí của chức danh CCV, một số nước quy định tất cả các CCV phải đủ điều kiện chuyên môn làm thẩm phán và luật sư (Đức) hoặc đã làm CCV dự bị với một thời gian nhất định (ít nhất 2 năm theo pháp luật Ba Lan) hoặc phải là người đã được bổ nhiệm trong hơn 10 năm vào các công việc được quy định theo luật (Hàn Quốc).... Với một số đối tượng nhất định như giáo sư, tiến sỹ luật học, thẩm phán, luật sư, tư vấn pháp luật có thâm niên ít nhất 3 năm.... thì một số tiêu chuẩn có thể được xem xét giảm bớt, ví dụ như tiêu chuẩn về thời gian làm CCV dự bị hoặc được miễn khoá đào tạo nghề, miễn giảm thời gian tập sự hành nghề (Ba Lan, Trung Quốc).
2.5. Tổ chức hành nghề công chứng
Về khái niệm: Tổ chức hành nghề công chứng, với các tên gọi khác nhau theo quy định của mỗi nước, là nơi để CCV hành nghề, được thành lập theo quy định của pháp luật không vì mục đích tìm kiếm lợi nhuận, thực hiện chức năng công chứng một cách độc lập, chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật.
Về các hình thức tổ chức:
Có hai mô hình tổ chức hành nghề phổ biến, đó là Văn phòng công chứng của một CCV hoặc Văn phòng công chứng của hai CCV trở lên. Một số nước như Đức, Indonexia.... chỉ cho phép loại hình thứ nhất; Trung Quốc thì lại yêu cầu tổ chức hành nghề công chứng phải có ít nhất hai CCV, trong khi một số nước khác cho phép tồn tại cả hai loại hình (Tây Ban Nha, ...).
Về nguyên tắc, Văn phòng công chứng không phải là một công ty, doanh nghiệp, song thường hoạt động theo mô hình doanh nghiệp: Văn phòng công chứng một CCV thường hoạt động theo mô hình doanh nghiệp tư nhân; CCV Trưởng Văn phòng chịu trách nhiệm toàn bộ và vô hạn về hoạt động của tổ chức mình. Một mô hình khác là công ty dân sự do nhiều CCV hợp thành. Trong trường hợp này mỗi thành viên chỉ chịu trách nhiệm cá nhân về văn bản do mình thực hiện.
Trong khi tổ chức hành nghề công chứng tại hầu hết các nước là của tư nhân, thì ở một số nước như Trung quốc, Đức vẫn duy trì mô hình tổ chức hành nghề công chứng nhà nước.
2.6. Mối quan hệ giữa cơ quan công chứng và các cơ quan khác
Công chứng luôn có mối quan hệ rất chặt chẽ với các cơ quan khác như thuế, cơ quan đăng ký nhà đất.... Để đảm bảo cho tính an toàn của hoạt động công chứng và sự thuận tiện cho người dân, cơ chế liên thông giữa các cơ quan này thường được xây dựng và hoạt động rất hiệu quả.
Một trong những cơ quan mà công chứng thường có quan hệ mật thiết nhất chính là cơ quan đăng ký nhà, đất và các tài sản khác cần đăng ký quyền sở hữu. Tại Tây Ban Nha, mối quan hệ giữa hoạt động công chứng và đăng ký ở Tây Ban Nha là rất khăng khít. Về mặt quản lý nhà nước, Tổng cục quản lý Đăng ký và Công chứng có chức năng quản lý hai mảng lớn, đó là quản lý đăng ký và quản lý công chứng; mỗi mảng do 01 Phó Tổng cục trưởng phụ trách. Hai mảng này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Với các hợp đồng, giao dịch thì giai đoạn công chứng và đăng ký là hai giai đoạn gắn liền với nhau, sau khi công chứng phải đăng ký thì giấy tờ sở hữu đó mới có giá trị, chịu sự kiểm soát song trùng
Một cấp độ cao của cơ chế liên thông chính là cơ chế một cửa: Tại Tây Ban Nha, trong nhiều trường hợp CCV có thể thay nhà nước thu thuế. CCV ở Tây Ban Nha và Pháp đều có chức năng thu thuế thay cho nhà nước từ khách hàng. Khách hàng chỉ cần đến một đầu mối (cơ quan công chứng/cơ quan đăng ký), theo đó, cơ quan công chứng/cơ quan đăng ký thu thuế, sau đó sẽ trả cho nhà nước. Tại Đức cũng tương tự như vậy, CCV sẽ thay mặt khách hàng thực hiện toàn bộ các dịch vụ có liên quan như nộp thuế, lệ phí, đăng ký chuyển dịch tài sản tại Sở địa chính....
2.7. Giá trị pháp lý của văn bản công chứng
Pháp luật công chứng của tất cả các nước đều thừa nhận giá trị pháp lý cao của văn bản công chứng, mà thông thường các nước đều quy định văn bản công chứng mang tính chất của văn bản công, có giá trị chứng cứ hiển nhiên và không phải chứng minh việc lập văn bản đó hoặc tính trung thực của các tình tiết được nêu ra trong văn bản đó (Ba Lan, Nhật Bản....).
  Mức độ giá trị được thừa nhận phổ biến nhất của văn bản công chứng là giá trị khẳng định tính xác thực của sự việc, ngoại trừ có những chứng cứ ngược lại phủ nhận văn bản công chứng này. Đối với văn bản liên quan đến nghĩa vụ đã được công chứng mà người có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, người có quyền có thể gửi yêu cầu giải quyết tới Tòa án nhân dân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật (Trung Quốc, ...).
  Ở một cấp độ cao hơn, một số nước quy định các văn bản công chứng có thể được thi hành ngay. Quy định này tạo nên giá trị quan trọng đặc biệt của văn bản công chứng mặc dù nó không phải là bản án hay quyết định của Tòa án. Lý do là nó giúp giảm gánh nặng đặt lên vai tòa án, vai trò quan trọng của CCV đã được thừa nhận trong xã hội và nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng sự thỏa thuận, cam kết giữa các bên.
  Pháp luật Tây Ban Nha thừa nhận văn bản công chứng có giá trị chứng cứ vật chất nên được Tòa án coi là “chứng cứ hiển nhiên”; khi được trình lên Thẩm phán thì không cần phải qua giám định hoặc xác minh, điều tra. Cũng vì được thừa nhận là chứng cứ hiển nhiên nên các bên khi đã ký vào văn bản thì không có quyền khiếu nại về nội dung của văn bản đã được công chứng mà văn bản công chứng có “giá trị thi hành ngay”, có giá trị như một phán quyết của Tòa án. Nếu một hợp đồng, giao dịch đã công chứng mà có tranh chấp thì chỉ cần chuyển một bản sao của văn bản công chứng đến là Tòa án có thể cho thi hành ngay mà không cần xem lại hợp đồng, giao dịch gốc. Với việc mua bán bất động sản, hợp đồng mua bán có công chứng được coi là giấy tờ sở hữu. Văn bản công chứng được coi là văn bản được cơ quan công quyền xác thực.
  Tương tự như Tây Ban Nha, tại Pháp văn bản công chứng có giá trị cưỡng chế thi hành trên toàn lãnh thổ, trừ trường hợp bị đình chỉ thi hành bởi Tòa án CCV có thể ban hành lệnh thực thi trong một số vấn đề đặc biệt theo yêu cầu tự nguyện của các bên có liên quan. Lệnh thực thi này cho phép tịch thu tài sản của bên có nghĩa vụ (là bên đi vay, bên đi thuê v.v...) mà không cần phải ra tòa.
  Tại Nhật Bản, các văn bản công chứng đáp ứng được những yêu cầu nhất định sẽ trở thành văn bản quy phạm có hiệu lực thi hành (văn bản gắn với việc thanh toán một số tiền cụ thể và các bên đã thỏa thuận với nhau về việc văn bản sẽ được thi hành ngày). Trong trường họp này, không giống như các trường hợp khi đơn khiếu nại đã nộp và bản án đã được đưa ra, các văn bản công chứng có hiệu lực thi hành có thể được đem ra thi hành mà không cần đến tòa án và được sử dụng khi cần cưỡng chế thi hành.
  Luật công chứng Hàn Quốc không có một quy định nào về giá trị chứng minh và hiệu lực thi hành của các văn bản công chứng; tuy nhiên Luật lại có quy định cho phép CCV có thể soạn thảo văn bản cho phép cưỡng chế thi hành và gắn nó vào hối phiếu hoặc séc.
  Tại Đức, bên cạnh sự đảm bảo về tính chắc chắn và chính xác về mặt pháp lý, một giao dịch dưới hình thức văn bản công chứng đem lại cho các bên những lợi ích khác nữa. Cụ thể là văn bản công chứng còn được coi là bằng chứng và có khả năng thực thi ngay lập tức. Điều này có nghĩa là một văn bản công chứng là bằng chứng đầy đủ về việc các bên đã chấp nhận các cam kết được đưa ra. Hơn nữa, người phải thực hiện một yêu cầu thanh toán tiền có thể tuyên bố trong một văn bản công chứng gọi là "thực thi ngay lập tức tài sản của mình". Trong trường hợp này, chủ nợ có thể tịch thu và khai thác tài sản của người phải thi hành mà không phải nộp đơn khởi kiện. Như vậy, các văn bản công chứng được xác lập bởi một CCV có thể so sánh được với một bản án có hiệu lực thi hành của tòa.
  Qua nghiên cứu kinh nghiệm của các nước Pháp, Đức, Tây Ban Nha, An-giê-ri, Trung Quốc, có thể thấy công chứng viên có vai trò rất quan trọng, được coi như “thẩm pháp hợp đồng”, góp phần bảo đảm an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch, phòng ngừa và hạn chế các rủi ro, tranh chấp. Các văn bản công chứng có giá trị pháp lý cao, có thể so sánh được với một bản án có hiệu lực thi hành của tòa.
3. Lĩnh vực thừa phát lại
Nghề thừa phát lại ở An-giê-ri hiện được điều chỉnh bởi Luật về tổ chức nghề thừa phát lại năm 2006. Đạo luật này gồm 68 điều được chia thành 5 chương: Chương 1 “Những quy định chung” (từ Điều 1 tới Điều 7). Chương 2 “Gia nhập nghề thừa phát lại và phương thức hành nghề” (từ Điều 8 đến Điều 38). Chương 3 “Tổ chức nghề thừa phát lại và việc thanh tra, kiểm tra” (từ Điều 39 đến Điều 48). Chương 4 “Kỷ luật” (từ Điều 49 đến Điều 63). Chương 5 “Các quy định chuyển tiếp và hiệu lực thi hành” (từ Điều 64 đến Điều 68).
Nghề thừa phát lại ở An-giê-ri chính thức được thành lập năm 1991, thừa phát lại khi đó được chuyển đổi từ các nhân viên lục sự (các thư ký Tòa án). Như vậy, nghề thừa phát lại ở An-giê-ri cũng phải trải qua giai đoạn chuyển đổi từ nhà nước thành tư nhân. Ban đầu cũng gặp rất nhiều nghi ngại nhưng đến nay, thừa phát lại trở thành nghề trụ cột trong hệ thống tư pháp ở An-giê-ri, có mối quan hệ phối hợp rất tốt với các cơ quan, tổ chức khác cũng như với các nghề tư pháp khác.
Nghề thừa phát lại ở An-giê-ri là một nghề tự do nhưng thừa phát lại thì được coi là “công lại”. Người muốn hành nghề thừa phát lại phải là cử nhân luật, có chứng chỉ đào tạo thừa phát lại, trải qua 02 năm tập sự và phải vượt qua kỳ thi tuyển. Người hành nghề thừa phát lại do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Thừa phát lại được quy định trong Luật về tổ chức nghề thừa phát lại năm 2006 và trong luật tố tụng dân sự là rất rộng. Theo đó, thừa phát lại có trách nhiệm: (i) thi hành các phán quyết dân sự của tòa án (có quyền bán đấu giá tài sản thi hành án theo quy định của luật tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu thẩm phán giải thích về bản án dân sự, công tố viên giải thích bản án hình sự); (ii) tống đạt giấy tờ của tòa án (dân sự, hành chính và cả hình sự), của cá nhân, tổ chức (văn bản thực hiện nghĩa vụ pháp lý của Ngân hàng, công chứng...), văn bản tương trợ tư pháp; (iii) lập vi bằng (theo yêu cầu của tổ chức, cá nhân đối với tài sản của chính người yêu cầu và chỉ định của Tòa án cũng như các cơ quan nhà nước đối với tài sản là bất động sản của người thứ 3); đặc biệt còn được tham gia vào quá trình tố tụng. Gần đây, thừa phát lại còn được bổ sung thêm một nhiệm vụ, quyền hạn nữa là giám sát việc bỏ phiếu ở các cuộc bầu cử. Mức phí dịch vụ thừa phát lại được ấn định cụ thể, không được quyền thỏa thuận. Tỷ lệ thi hành án (do thừa phát lại thực hiện) đạt trên 90%, trung bình một vụ thi hành án trong 03 tháng, tối đa theo quy định là 06 tháng.
Hiện tại, số lượng người hành nghề thừa phát lại ở An-giê-ri là 1.500 người, sắp tới sẽ tổ chức thêm 1 kỳ thi quốc gia, bổ sung thêm khoảng 1.500 thừa phát lại nữa. Bộ Tư pháp An-giê-ri đang có đề án thành lập trường đào tạo thừa phát lại riêng. Trước khi hành nghề, thừa phát lại cũng phải mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp.
Văn phòng thừa phát lại ở An-giê-ri có thể do một hoặc nhiều thừa phát lại thành lập, hoạt động tương ứng theo loại hình doanh nghiệp tư nhân hoặc công ty hợp danh (có văn phòng, cơ sở vật chất, thư ký nghiệp vụ...). Các văn phòng thừa phát lại không được quảng cáo về dịch vụ của mình.
Hội đồng thừa phát lại Quốc gia An-giê-ri bao gồm 25 thành viên (kể cả Chủ tịch), có 03 Văn phòng thừa phát lại vùng quản lý các Văn phòng thừa phát lại và chịu sự quản lý trực tiếp của Hội đồng thừa phát lại quốc gia (mỗi Văn phòng thừa phát lại vùng sẽ cử ra 15 thừa phát lại để bầu lấy 8 thừa phát lại tham gia vào Hội đồng thừa phát lại Quốc gia). Thừa phát lại An-giê-ri đã gia nhập Liên minh thừa phát lại quốc tế./.
CỤC BỔ TRỢ TƯ PHÁP
(Nguồn Cổng Thông tin điện tử Bộ Tư pháp: http://bttp.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/tin-su-kien.aspx?ItemID=398​)

Thông tinFalsePhòng Bổ trợ Tư pháp
Nội dung cơ bản của Quy chế phối hợp số 992/QCPH-BTP-BCA-BQP-VKSNDTC-TANDTC ngày 26/3/2018 về quy chế phối hợp liên ngành trong công tác giám định tư phápTinNội dung cơ bản của Quy chế phối hợp số 992/QCPH-BTP-BCA-BQP-VKSNDTC-TANDTC ngày 26/3/2018 về quy chế phối hợp liên ngành trong công tác giám định tư pháp/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
6/12/2019 1:00 PMNoĐã ban hành

Luật giám định tư pháp, Quyết định số 1549/QĐ-TTg ngày 16/10/2012 của Thủ tướng Chính phủ về Kế hoạch triển khai thi hành Luật giám định tư pháp, Nghị định số 85/2013/NĐ-CP ngày 29/7/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật giám định tư pháp và Đề án 258 có nhiều quy định về phối hợp giữa Bộ Tư pháp với các Bộ, ngành trong việc xây dựng, ban hành các văn bản hướng dẫn về tổ chức, hoạt động, quản lý giám định tư pháp (Mục 3 phần II của Kế hoạch triển khai thi hành Luật GĐTP theo QĐ số 1549/QĐ-TTg), đặc biệt là sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng ở cấp Trung ương, nhất là Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Khoản 2, Khoản 3 Điều 42 và Khoản 3 Điều 44 của Luật giám định tư pháp) trong việc thống kê, báo cáo về tình hình trưng cầu, yêu cầu giám định, đánh giá về tình hình thực hiện giám định, sử dụng kết luận giám định trong hoạt động tố tụng. Thời gian qua, quan hệ phối hợp giữa ngành tư pháp (Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp) với các cơ quan tiến hành tố tụng trong quản lý giám định tư pháp đã được quan tâm, cải thiện một bước nhưng còn nhiều hạn chế, bất cập như còn thiếu thông tin, số liệu thống kê về trưng cầu, đánh giá, sử dụng kết luận giám định trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử nên việc quy hoạch, phát triển đội ngũ người, tổ chức giám định tư pháp và nhiều giải pháp quản lý còn thiếu căn cứ thực tiễn của hoạt động tố tụng... Nhiều vướng mắc, khó khăn trong tổ chức, hoạt động, quản lý giám định tư pháp chưa được kịp thời thông tin, phối hợp giải quyết, làm hạn chế hiệu quả hoạt động, quản lý giám định tư pháp. Vì vậy, để khắc phục những hạn chế nếu trên và bảo đảm đáp ứng tốt yêu cầu ngày cao của hoạt động tố tụng đối với giám định tư pháp thì liên ngành giữa Bộ Tư pháp - Bộ Công an - Bộ Quốc phòng - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Tòa án nhân dân tối cao (sau đây gọi tắt là liên ngành) đã xây dựng và ban hành Quy chế phối hợp liên ngành số 992/QCPH-BTP-BCA-BQP-VKSNDTC-TANDTC ngày 26/3/2018 về giám định tư pháp. Chúng tôi xin giới thiệu những nội dung cơ bản của Quy chế phối hợp liên ngành như sau:

1. Quan điểm chỉ đạo và mục đích của việc ban hành Quy chế phối hợp
a) Quan điểm chỉ đạo
- Tiếp tục cụ thể hóa các quy định của Luật giám định tư pháp, Nghị định số 85/2013/NĐ-CP ngày 29/7/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật giám định tư pháp, các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về giám định tư pháp và các văn bản khác có liên quan trong việc phối hợp giữa các Bộ, ngành quản lý giám định tư pháp, cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan, tổ chức, hoạt động, quản lý giám định tư pháp, nhằm bảo đảm phù hợp với tính chất, đặc thù và yêu cầu thực tiễn của công tác giám định tư pháp.
- Sự phối hợp liên ngành về giám định tư pháp phải bảo đảm tạo lập cơ chế thông tin thông suốt, kịp thời và phối hợp toàn diện, hiệu quả nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, quản lý giám định tư pháp, đáp ứng tốt yêu cầu của hoạt động tố tụng trong thời gian tới.
- Quy định cụ thể trách nhiệm của từng cơ quan phối hợp và cơ quan có liên quan; bảo đảm tính khả thi và hiệu quả của Quy chế phối hợp trên thực tế.
b) Mục đích
Việc xây dựng Quy chế phối hợp nhằm tăng cường vai trò, trách nhiệm, năng lực tổ chức thực hiện và sự phối hợp giữa cơ quan giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về công tác giám định tư pháp với các cơ quan tiến hành tố tụng cấp Trung ương và cơ quan có liên quan đối với công tác giám định tư pháp. Qua đó, thúc đẩy thực hiện đầy đủ và có hiệu quả các quy định của pháp luật về giám định tư pháp; kịp thời giải quyết, tháo gỡ các vướng mắc, khó khăn trong hoạt động giám định, quản lý giám định tư pháp; bảo đảm tăng cường hiệu quả hoạt động, quản lý giám định tư pháp, góp phần quan trọng vào việc đáp ứng tốt yêu cầu của hoạt động tố tụng trong bối cảnh đẩy mạnh cải cách tư pháp và phòng, chống tham nhũng ở nước ta trong thời gian tới.
2. Nội dung cơ bản của Quy chế phối hợp
a) Phạm vi điều chỉnh
Quy chế phối hợp liên ngành về giám định tư pháp quy định cơ chế thông tin, phối hợp giữa Bộ Tư pháp và Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao trong công tác quản lý nhà nước về giám định tư pháp và giải quyết các vướng mắc, khó khăn về giám định tư pháp trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử nói chung và giải quyết án kinh tế, tham nhũng nói riêng (Điều 1).
b) Nguyên tắc phối hợp
Hoạt động phối hợp được thực hiện trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp và các Bộ, ngành nhằm hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Đồng thời, hoạt động phối hợp phải được thực hiện thường xuyên, kịp thời, đảm bảo chính xác, công khai, minh bạch và bảo đảm nguyên tắc bí mật nhà nước, bí mật công tác theo quy định của pháp luật (Điều 3).
c) Các hình thức phối hợp liên ngành
Các cơ quan thực hiện việc thông tin, phối hợp với nhau về giám định tư pháp bằng các hình thức: (1) trao đổi trực tiếp, gửi công văn, thông báo bằng văn bản, tổ chức họp liên ngành, hoặc hình thức khác liên quan đến giám định tư pháp thuộc thẩm quyền giải quyết; (2) cung cấp số liệu về tổ chức, hoạt động, quản lý giám định tư pháp và các tài liệu có liên quan về giám định tư pháp; (3) kiểm tra liên ngành về công tác giám định tư pháp.
d) Những nội dung và cách thức phối hợp cụ thể
Chương II của Quy chế phối hợp liên ngành quy định nội dung, cách thức phối hợp, trách nhiệm cụ thể của từng cơ quan chủ trì, phối hợp đối với mỗi nội dung phối hợp. Cụ thể như sau:
- Điều 5 của Quy chế quy định cơ chế phối hợp giữa Bộ Tư pháp và Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao trong việc xây dựng, ban hành văn bản về giám định tư pháp, trong đó xác lập nguyên tắc khi cần có sự phối giữa liên ngành về xây dựng, ban hành văn bản về giám định tư pháp thì các cơ quan chủ trì, phối hợp phải thực hiện tốt trách nhiệm của mình (chủ trì soạn thảo hoặc tham gia ý kiến theo đề nghị của cơ quan chủ trì) theo đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp luật về ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Để phát huy vai trò, trách nhiệm của Cơ quan giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về giám định tư pháp, Điều này của Quy chế đã quy định Bộ Tư pháp có trách nhiệm thông báo, đôn đốc các cơ quan phối hợp, cơ quan, tổ chức có liên quan trong việc xây dựng, ban hành văn bản về giám định tư pháp; cơ quan, tổ chức được thông báo, đôn đốc có trách nhiệm rà soát, thông báo lại cho Bộ Tư pháp về tiến độ, kết quả thực hiện.
- Phối hợp giải quyết khó khăn, vướng mắc về giám định tư pháp trong hoạt động tố tụng được quy định tại Điều 6, trong đó quy định rõ cơ chế, trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng (Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao) trong việc chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan và Ban Nội chính Trung ương trong việc giải quyết các vướng mắc, khó khăn trong trưng cầu, đánh giá sử dụng kết luận giám định ở giai đoạn tố tụng thuộc thẩm quyền của Bộ, ngành mình; bên cạnh đó, theo đề nghị của cơ quan phối hợp, Bộ Tư pháp có trách nhiệm đôn đốc Bộ, cơ quan ngang Bộ quản lý lĩnh vực giám định tư pháp giải quyết vướng mắc, khó khăn.
- Phối hợp trong việc hướng dẫn thống kê và cung cấp thông tin, số liệu thống kê về giám định tư pháp trong hoạt động tố tụng được quy định tại Điều 7, trong đó quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng (Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao) trong việc chỉ đạo thực hiện thống kê về trưng cầu, đánh giá, sử dụng kết luận giám định tư pháp trong giai đoạn tố tụng thuộc thẩm quyền và định kỳ 6 tháng, hằng năm cung cấp cho Bộ Tư pháp để phục vụ cho quản lý nhà nước về giám định tư pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám định phục vụ tốt yêu cầu của hoạt động tố tụng.
- Phối hợp trong kiểm tra về giám định tư pháp được quy định tại Điều 8, trong đó quy định nguyên tắc trường hợp cần thiết và trong phạm vi thẩm quyền quản lý nhà nước, Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các cơ quan phối hợp và cơ quan, tổ chức có liên quan tiến hành kiểm tra công tác giám định tư pháp. Cục Bổ trợ tư pháp có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với đơn vị đầu mối của các cơ quan phối hợp (Tổng cục Cảnh sát Bộ Công an, Vụ Pháp chế Bộ Quốc phòng, Vụ Pháp chế và quản lý khoa học Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Vụ Pháp chế và quản lý khoa học Tòa án nhân dân tối cao) xây dựng kế hoạch kiểm tra, trình Lãnh đạo Bộ Tư pháp phê duyệt và tổ chức thực hiện kiểm tra liên ngành về giám định tư pháp.
- Phối hợp trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về giám định tư pháp được quy định tại Điều 9, trong đó quy định rõ cơ chế phối hợp, trách nhiệm của các cơ quan phối hợp trong việc chủ trì, phối hợp giải quyết các khiếu nại tố cáo thuộc thẩm quyền hoặc có liên quan theo nguyên tắc cơ quan nào tiếp nhận khiếu nại, tổ cáo thì giải quyết, trong trường hợp không thuộc thẩm quyền thì chuyển đến cơ quan có trách nhiệm để xử lý theo thẩm quyền; khi xử lý xong thì thông báo kết quả cho cơ quan đã chuyển đơn biết.
- Phối hợp trong tổ chức họp giao ban liên ngành về giám định tư pháp được quy định tại Điều 10, trong đó hằng năm Bộ Tư pháp chủ trì tổ chức họp họp giao ban liên ngành để thông tin, trao đổi và bàn các biện pháp giải quyết các vướng mắc, khó khăn về giám định tư pháp phát sinh, bảo đảm hiệu quả hoạt động, quản lý giám định tư pháp và đáp ứng tốt yêu cầu của hoạt động tố tụng.
d) Về tổ chức thực hiện
Chương III của Quy chế phối hợp quy định cụ thể đơn vị đầu mối của cơ quan phối hợp tại Điều 11; trách nhiệm của Bộ Tư pháp và các cơ quan phối hợp khác trong việc tổ chức thực hiện Quy chế tại Điều 12 và Điều 13; trách nhiệm của đơn vị đầu mối thuộc các cơ quan phối hợp là Cục Bổ trợ tư pháp Bộ Tư pháp, Tổng cục Cảnh sát Bộ Công an, Vụ Pháp chế Bộ Quốc phòng, Vụ Pháp chế và quản lý khoa học Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Vụ Pháp chế và quản lý khoa học Tòa án nhân dân tối cao trong việc tham mưu cho Lãnh đạo Bộ, ngành mình trong tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, trách nhiệm của cơ quan mình tại Điều 14; kinh phí bảo đảm thực hiện nhiệm vụ phối hợp của mỗi cơ quan theo nguyên tắc kinh phí phục vụ công tác phối hợp được ngân sách nhà nước cấp theo dự toán hàng năm của các cơ quan phối hợp theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước và trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình, các cơ quan phối hợp có trách nhiệm lập dự toán, thanh quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước cấp cho hoạt động phối hợp theo quy định của pháp luật (Điều 15) và hiệu lực thi hành của Quy chế này kể từ ngày ký ban hành - từ ngày 26/3/2018 (Điều 16).
          Để bảo đảm tổ chức hiệu quả Quy chế này trên thực tế thì liên ngành cần tiếp tục có hướng dẫn, chỉ đạo các cơ quan thuộc ngành mình ở cấp tỉnh triển khai thực hiện một số nhiệm vụ, nhất là về chỉ tiêu thống kê, tổ chức thực hiện giám định tư pháp trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng và cung cấp thông tin cho Sở Tư pháp và các Sở, ban ngành có liên quan bảo đảm phục vụ quản lý giám định tư pháp ở địa phương (như đổi mới, nâng cao chất lượng bổ nhiệm giám định viên tư pháp, lập và công bố danh tổ chức, người giám định tư pháp ở địa phương gắn với nhu cầu tố tụng của thực tế; tăng cường bồi dưỡng, đào tạo kiến thức pháp lý, nghiệp vụ giám định cho đội ngũ người giám định tư pháp, người tiến hành tố tụng ở địa phương theo quy định của Đề án tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp…) và bảo đảm hệ thống thông tin thông suốt, thống nhất từ địa phương lên Trung ương về giám định tư pháp; đồng thời cũng cần có cơ chế phối hợp kịp thời, hiệu quả giữa liên ngành ở địa phương để kịp thời giải quyết các vướng mắc, khó khăn trong trưng cầu, đánh giá, sử dụng kết luận giám định tư pháp của hoạt động tố tụng ở địa phương./.
Hải Đăng
(Nguồn Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp: http://bttp.moj.gov.vn/qt/gdtp/Pages/tin-tuc.aspx?ItemID=6​)
Thông tinFalsePhòng Bổ trợ Tư pháp
Kết quả đạt được sau 5 năm thi hành Luật Giám định tư pháp trên địa bàn tỉnh Bình DươngTinKết quả đạt được sau 5 năm thi hành Luật Giám định tư pháp trên địa bàn tỉnh Bình Dương/bo-tro-tu-phap/PublishingImages/2018-12/Luat giam dinh tu phap_Key_31122018180557.jpg
11/30/2018 10:00 AMNoĐã ban hành

Luat giam dinh tu phap.jpg

I. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI THI HÀNH LUẬT GIÁM ĐỊNH TƯ PHÁP, NGHỊ ĐỊNH 85/2013/NĐ-CP VÀ CÁC VĂN BẢN CÓ LIÊN QUAN

- Trên cơ sở nhận thức tầm quan trọng của công tác giám định tư pháp, nhằm tuyên truyền, phổ biến Luật Giám định tư pháp đến cán bộ, công chức, các tầng lớp nhân dân; thực hiện tốt công tác bồi dưỡng kiến thức pháp luật và nghiệp vụ cho đội ngũ người làm giám định tư pháp, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Luật Giám định tư pháp trên địa bàn tỉnh (kèm theo Quyết định số 239/QĐ-UBND ngày 28/01/2013); tổ chức Hội nghị triển khai Luật cho cho lãnh đạo các sở, ngành, báo cáo viên cấp tỉnh, các giám định viên tư pháp, cán bộ pháp chế các sở, ngành, Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã. Đồng thời, chỉ đạo Sở Tư pháp và các sở, ngành chuyên môn quan tâm và tích cực tuyên truyền, phổ biến sâu, rộng đến các cơ quan, tổ chức, cá nhân bằng nhiều hình thức như: tuyên truyền trên Báo Bình Dương, Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh thực hiện chuyên mục "Pháp luật và cuộc sống"; đăng Website của Sở Tư pháp và Báo Bình Dương về những nội dung cơ bản của Luật Giám định tư pháp.

- Tình hình triển khai thực hiện Luật Giám định tư pháp và các văn bản hướng dẫn thi hành từ năm 2013 đến nay: Ngay khi Luật Giám định tư pháp có hiệu lực pháp luật, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Quyết định số 239/QĐ-UBND ngày 28/01/2013 ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật Giám định tư pháp trên địa bàn tỉnh, ngày 05/3/2014, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Kế hoạch thực hiện "Đề án Đổi mới và nâng cao hoạt động Giám định tư pháp" trên địa bàn tỉnh Bình Dương năm 2014; Thực hiện các quy định của Luật Giám định tư pháp, Đề án "Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp", Quyết định số 01/2014/QĐ-TTg trong đó có nội dung về thực hiện chế độ bồi dưỡng giám định tư pháp. Đặc biệt, Ủy ban nhân dân tỉnh đã xây dựng dự thảo Nghị quyết trình Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành Nghị quyết số 35/2014/NQ-HĐND ngày 10/12/2014 về chế độ hỗ trợ công tác pháp y, tâm thần, kỹ thuật hình sự trên địa bàn tỉnh Bình Dương. Ngày 22/12/2014, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Quyết định số 65/2014/QĐ-UBND về việc Quy định chế độ hỗ trợ công tác pháp y, tâm thần, kỹ thuật hình sự trên địa bàn tỉnh Bình Dương; Trong năm 2017, Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương đã tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành kế hoạch số 2542/KH-UBND ngày 22/6/2017 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương về việc tổ chức bồi dưỡng kiến thức pháp lý cho người giám định tư pháp trên địa bàn tỉnh Bình Dương năm 2017, theo đó Lớp học đã diễn ra từ ngày 13/12/2017 đến ngày 15/12/2017 với sự tham gia của gần 60 giám định viên tư pháp, người làm công tác giám định trên địa bàn tỉnh. Lớp bồi dưỡng đã cung cấp các kiến thức pháp lý cơ bản trong lĩnh vực giám định tư pháp, giúp các học viên hiểu rõ hơn về vị trí, vai trò của hoạt động giám định trong hoạt động tố tụng từ đó hỗ trợ cho công tác giám định tại cơ quan, đơn vị.

- Về khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai các văn bản: Quyết định số 01/2014/QĐ-TTg đã cụ thể hóa một phần chính sách đãi ngộ của Nhà nước nhằm động viên, khích lệ đối với đội ngũ người giám định tư pháp. Tuy nhiên, theo đánh giá của các sở, ngành, tổ chức giám định và thực tiễn áp dụng các chính sách nêu trên cho thấy: Chế độ bồi dưỡng đối với người giám định tư pháp và người giúp việc cho người giám định tư pháp vẫn còn thấp so với tính chất đặc thù công việc và điều kiện kinh tế xã hội hiện nay. Đây là một trong những lý do cơ bản dẫn đến tình trạng người làm giám định tư pháp chuyên trách không yên tâm gắn bó với công việc giám định cũng như không động viên được những người giám định tư pháp kiêm nhiệm tích cực tham gia hoạt động giám định tư pháp; đồng thời, các chuyên gia giỏi trong các ngành, lĩnh vực không muốn tham gia hoạt động giám định tư pháp.

II. ĐÁNH GIÁ VỀ THỰC TRẠNG TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG, QUẢN LÝ GIÁM ĐỊNH TƯ PHÁP TẠI TỈNH BÌNH DƯƠNG

1. Đánh giá chung

- Nhìn chung, công tác phổ biến, triển khai Luật Giám định tư pháp và các văn bản có liên quan đã được Sở Tư pháp và các sở, ngành chuyên môn quan tâm và tích cực tuyên truyền, phổ biến sâu, rộng đến các cơ quan, tổ chức, cá nhân bằng nhiều hình thức như: tuyên truyền trên Báo, Đài Phát thanh Truyền hình tỉnh. Đến nay, nhiều Sở, ngành đã có Giám định viên tư pháp, tạo một bước chuyển biến trong nhận thức của các ngành, các cấp, các tổ chức, cá nhân về vị trí vai trò và nội dung giám định tư pháp; Hầu hết lãnh đạo các ngành, các cấp và đặc biệt là các cơ quan tiến hành tố tụng ở địa phương đều rất quan tâm và xem trọng công tác giám định, mối quan hệ tốt giữa các cơ quan tiến hành tố tụng ở địa phương đã góp phần vào việc xác định nguyên nhân và thủ phạm gây án, chứng cứ buộc tội, gỡ tội trong các vụ án.

- Hoạt động giám định tư pháp luôn nhận được sự quan tâm lãnh đạo của Ủy ban nhân dân tỉnh, một số lãnh đạo Sở chuyên môn quản lý về lĩnh vực giám định tư pháp như: Sở Y tế, Công an tỉnh, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch, Sở Công Thương, Cục Thuế, Cục Hải quan, Sở Giao thông-Vận tải, Sở Xây dựng, Chi Cục Kiểm lâm thuộc Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn…, bên cạnh đó, địa phương còn nhận được sự quan tâm, hướng dẫn của Bộ Tư pháp, hướng dẫn của Viện Kỹ thuật hình sự, Viện Pháp Y…, qua đó, giúp công tác triển khai Luật Giám định tư pháp và các văn bản hướng dẫn thi hành được hiệu quả hơn.

- Đánh giá đóng góp của hoạt động giám định tư pháp: Giám định tư pháp là hoạt động bổ trợ tư pháp, là công cụ quan trọng, phục vụ đắc lực cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử trước yêu cầu đẩy mạnh cải cách tư pháp, phòng chống tham nhũng, góp phần vào việc đảm bảo trật tự an toàn xã hội, phát triển đất nước; góp phần quan trọng trong việc giải quyết các vụ án được chính xác, khách quan, đúng pháp luật, rút ngắn thời gian giám định để các cơ quan pháp luật xử lý kịp thời các đối tượng vi phạm.

2. Về đội ngũ người, tổ chức giám định tư pháp

- Số lượng, chất lượng đội ngũ người giám định tư pháp có sự tăng giảm qua các năm, nguyên nhân giảm chủ yếu là do nghỉ hưu, chuyển công tác khác. Tuy nhiên chất lượng thì ngày càng được nâng cao do được đào tạo ngày càng bài bản về kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ giám định và bồi dưỡng kiến thức pháp lý. Số lượng cụ thể:

NămTổ chức giám định tư pháp công lậpGiám định viên tư phápNgười giám định tư pháp theo vụ việcGhi chú
2013029204 
20140210704Ngày 30/12/2014 tách TT Giám định Y khoa – Pháp y thành TT Pháp y.
20150210104 
2016029602 
2017028806 
2018028806 

- Việc củng cố, kiện toàn và bảo đảm kinh phí, phương tiện hoạt động, cở sở vật chất và các điều kiện cần thiết khác:

+ Tại các tổ chức giám định tư pháp: Trang thiết bị, phương tiện phục vụ cho công tác giám định được các ngành quan tâm và đầu tư, cơ bản đáp ứng kịp thời các trưng cầu giám định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và yêu cầu của cá nhân, tổ chức. Phòng Kỹ thuật hình sự thuộc - Công an tỉnh và Trung tâm Pháp y đã có trụ sở riêng. Phòng Kỹ thuật hình sự  - Công an tỉnh được trang bị 02 phòng máy dùng để phân tích, so sánh và 01 phòng thí nghiệm dùng lưu mẫu, thanh loại mẫu, 01 phòng giám định vi thể phục vụ công tác giám định pháp y, đặc biệt được Ủy ban nhân dân tỉnh cấp: 01 máy sắc ký khí phối phổi dùng giám định ma túy và hợp chất hữu cơ, 01 máy sắc ký hồng ngoại, 01 máy UV, 01 kính hiển vi kim tương phục vụ giám định cháy, va ly giám định pháp y tử thi… Nhờ có phương tiện hiện đại đã giúp cho công tác giám định hoàn thành nhanh chóng, kịp thời, kết quả trả lời chính xác, là chứng cứ quan trọng trong quá trình điều tra và xét xử, phục vụ đắc lực trong cuộc đấu trang phòng chống tội phạm. Trung tâm Pháp y được cấp máy xét nghiệm làm giải phẩu bệnh để thực hiện công tác giám định pháp y.

+ Tại một số sở, ngành khác: Phần lớn các giám định viên đều chưa được trang bị các trang thiết bị phục vụ cho công tác giám định chuyên môn, hiện chỉ có các giám định viên thuộc lĩnh vực văn hóa, đã được trang bị các thiết bị phục vụ cho công tác giám định gồm: 01 tivi màu 21 inch, 01 màn hình LCD 24 inch, 01 đầu đĩa kỹ thuật số hiệu JVC (3 ngăn đĩa), 01 đầu đĩa DVD, 01 đầu đĩa DVD MP4, 01 đầu đĩa và 01 máy casset hiệu AWA.

- Việc lựa chọn, lập, công bố danh sách và đăng tải danh sách tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc tại địa phương được các sở, ngành quan tâm và thực hiện thường xuyên qua các năm theo quy định của pháp luật.

- Về nguyên nhân của vướng mắc, hạn chế trong việc triển khai thực hiện quy định về thành lập Văn phòng giám định tư pháp trong một số lĩnh vực theo quy định của Luật Giám định tư pháp: Theo Khoản 1 Điều 14 Luật Giám định tư pháp quy định: "Văn phòng giám định tư pháp là tổ chức giám định tư pháp ngoài công lập, được thành lập trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, xây dựng, cổ vật, di vật, bản quyền tác giả.". Tuy nhiên, qua thực tiễn kết quả hoạt động tại địa phương, các vụ việc giám định tư pháp trong các lĩnh vực này rất hạn chế về số lượng, chủ yếu phát sinh trong lĩnh vực pháp y, pháp y tâm thần và kỹ thuật hình sự. Mặt khác, các giám định viên tư pháp trên địa bàn tỉnh đa số là hoạt động kiêm nhiệm tại các sở, ngành, vì vậy chưa phát sinh nhu cầu thành lập Văn phòng giám định tư pháp trên địa bàn tỉnh.

- Đánh giá khả năng đáp ứng yêu cầu giám định của đội ngũ người giám định tư pháp, các tổ chức giám định tư pháp: Với những kết quả đạt được trong thời gian qua (có số liệu ở phần phụ lục kèm theo) và ngày càng nhận được sự quan tâm, đầu tư của các sở, ngành, trong thời gian tới đội ngũ người, tổ chức giám định tư pháp sẽ đáp ứng yêu cầu giám định tư pháp tại địa phương.

- Nguyên nhân của khó khăn, vướng mắc, hạn chế trong phát triển đội ngũ và chất lượng người, tổ chức giám định tư pháp: Số lượng giám định viên pháp y về mổ tử thi còn hạn chế (hiện nay toàn tỉnh chỉ có 05 giám định viên pháp y về mổ tử thi) do việc tuyển dụng rất khó khăn. Bác sĩ làm công tác giám định pháp y chịu nhiều áp lực từ gia đình, xã hội, trong khi chế độ bồi dưỡng còn thấp. Ngoài ra, việc cử cán bộ đi đào tạo để tạo nguồn bổ nhiệm giám định viên trong vực pháp y, pháp y tâm thần chưa được thực hiện thường xuyên. Giám định viên tại các sở, ngành đều là kiêm nhiệm, phải tập trung cho công tác chuyên môn nên còn hạn chế về kỹ năng và kiến thức pháp luật. Trang thiết bị phục vụ cho công tác giám định tại các sở, ngành còn hạn chế. Trong lĩnh vực giao thông, vận tải các giám định viên phải tự trang bị phương tiện hoạt động.

3. Về hoạt động giám định tư pháp

a) Về tiếp nhận và thực hiện giám định tư pháp

- Đánh giá chất lượng, hiệu quả hoạt động giám định tư pháp tại địa phương: Từ năm 2013 đến tháng 8 năm 2018, các cơ quan đã tiếp nhận và thực hiện tổng cộng 14.362 vụ giám định trong đó có 7.389 vụ giám định kỹ thuật hình sự và 6.915 vụ giám định pháp y, pháp y tâm thần.

Các vụ giám định đều được tiếp nhận và thực hiện giám định trong thời gian nhanh nhất, kết quả trả lời trong thời hạn của quyết định trưng cầu, một số ít vụ còn chậm do thời điểm số lượng vụ việc gửi giám định nhiều, một số thiết bị phương tiện được trang cấp đã lâu, hoặc bị hư hỏng không có thiết bị thay thế dẫn đến một số vụ phải kéo dài thời gian giám định.

- Khó khăn, vướng mắc:

+ Trường hợp người trưng cầu giám định đề nghị giám định những nội dung không phù hợp với tình tiết vụ án dẫn đến kết luận giám định chưa chính xác hoặc nội dung trưng cầu không rõ ràng. Ngược lại, một số giám định viên do chưa trang bị đầy đủ kiến thức pháp luật cần thiết gắn với yêu cầu giám định nên một số trường hợp chưa nắm rõ mục đích, yêu cầu giám định, dẫn đến kết quả giám định chưa đáp ứng yêu cầu trong công tác điều tra, truy tố, xét xử, ví dụ: kết luận giám định chỉ thể hiện về tỉ lệ thương tật mà chưa ghi rõ cơ chế hình thành thương tích dẫn đến việc giải quyết một số vụ án còn khó khăn.

+ Giám định viên tư pháp không được thông tin về việc xử lý kết quả giám định tư pháp từ cơ quan trưng cầu giám định nên dẫn đến khó khăn trong việc đánh giá kết quả, rút ra bài học kinh nghiệm trong công tác giám định tư pháp.

- Tình hình nhận tạm ứng, thanh toán chi phí giám định, tiền bồi dưỡng giám định tư pháp do cơ quan, người trưng cầu, yêu cầu giám định chi trả:

+  Được thực hiện theo quy định của pháp luật, tuy nhiên một số trường hợp còn thanh toán chậm, mức chi trả còn thấp, chưa phù hợp với thời gian, công sức và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của các giám định viên tư pháp, người giám định tư pháp theo vụ việc.

+ Tại phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh, kinh phí bồi dưỡng giám định phân bổ hàng năm còn hạn chế, không đủ quyết toán trong năm, thông thường chỉ đáp ứng được 03 quý/năm. Số vụ việc giám định tư pháp lĩnh vực kỹ thuật hình sự ngày càng nhiều, năm sau thường cao hơn so với năm trước; trong thực tế, trong một thời điểm, một giám định viên thực hiện nhiều vụ việc giám định, trong khi đó chế độ thanh quyết toán theo ngày công (22 ngày/tháng), nên chỉ thanh toán được một phần số vụ trưng cầu.

+ Tại Trung tâm Pháp y tỉnh: Tương tự tình hình chung của các địa phương trong cả nước, do kinh phí cấp cho công tác giám định pháp y còn hạn chế dẫn đến tình trạng cơ quan công an hạn chế trưng cầu Trung tâm Pháp y thực hiện giám định pháp y tử thi, mỗi năm Trung tâm chỉ thực hiện khoảng 10 đến 12 ca. Thu phí giám định và phí bồi dưỡng giám định viên giữa Trung tâm và cơ quan công an còn vướng mắc, cơ quan công an chỉ chi trả cho 01 giám định viên và 01 người giúp việc trên 01 ca giám định tử thi (kể cả các trường hợp cần nhiều người thực hiện hơn).

b) Về trưng cầu, yêu cầu giám định và đánh giá, sử dụng kết luận giám định trong hoạt động tố tụng của cơ quan điều tra, kiểm sát, tòa án

Việc trưng cầu, yêu cầu giám định được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Chất lượng của kết luận giám định đảm bảo tính chính xác, khách quan, nhanh chóng và kịp thời. Đa số các kết luận giám định đều được sử dụng, là nguồn chứng cứ quan trọng trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử cũng như giải quyết các vụ tranh chấp dân sự, hành chính, kinh tế; trong đó có vụ kết luận giám định là chứng cứ duy nhất để xác định đối tượng gây án.

4. Công tác quản lý nhà nước về giám định tư pháp của các sở, ngành và trách nhiệm của các cơ quan tố tụng với công tác giám định tư pháp

- Vai trò quản lý nhà nước của cơ quan đầu mối là Sở Tư pháp và sở, ngành chuyên môn:

+ Sở Tư pháp đã thực tốt chức năng tham mưu giúp Ủy ban nhân dân tỉnh quản lý nhà nước về công tác giám định tư pháp tại địa phương, cụ thể:

Công khai và giải quyết các thủ tục hành chính liên quan đến lĩnh vực giám định tư pháp thuộc phạm vi, thẩm quyền giải quyết của Sở Tư pháp như: thành lập Văn phòng giám định tư pháp; Đăng ký hoạt động Văn phòng giám định tư pháp...đúng pháp luật cho các cá nhân, tổ chức đến liên hệ thực hiện thủ tục. Thẩm định hồ sơ bổ nhiệm giám định viên tư pháp của các sở, ngành một cách nhanh chóng, kịp thời, hỗ trợ cung cấp các căn cứ pháp lý tạo thuận lợi nhất để công tác bổ nhiệm giám định viên tư pháp được nhanh chóng, đúng quy định

Việc tham mưu các văn bản triển khai thực hiện Luật Giám định tư pháp và các văn bản hướng dẫn thi hành được kịp thời, đầy đủ, phù hợp với tình hình thực tiễn tại địa phương. Hằng năm tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh rà soát, lập và công bố danh sách người, tổ chức giám định tư pháp, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc đúng quy định. Định kỳ báo cáo Bộ Tư pháp về tình hình tổ chức, hoạt động giám định tư pháp ở địa phương theo quy định. Đồng thời, nhằm tạo sự thống nhất trong quá trình thực hiện hoạt động giám định tư pháp tại địa phương, Sở Tư pháp đã tổ chức Hội thảo trao đổi, rút kinh nghiệm trong hoạt động giám định tư pháp trên địa bàn tỉnh.

+ Các sở, ngành: Hầu hết lãnh đạo các sở, ngành và đặc biệt là các cơ quan tiến hành tố tụng ở địa phương đều rất quan tâm và xem trọng công tác giám định, mối quan hệ tốt giữa các cơ quan tiến hành tố tụng ở địa phương.

- Về sự phối hợp trong quản lý nhà nước về giám định tư pháp: Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động giám định tư pháp, Sở Tư pháp – cơ quan đầu mối và các sở, ngành chuyên môn đã có sự phối hợp nhịp nhàng và chặt chẽ qua các công tác tuyên truyền, lựa chọn người, tổ chức giám định tư pháp, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc, bổ nhiệm giám định viên tư pháp, thực hiên chức năng giám định tư pháp khi có trưng cầu của các cơ quan tiến hành tố tụng...

- Về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị được Sở Tư pháp quan tâm, chú trọng và giải quyết kịp thời theo đúng quy định của pháp luật.

- Về chế độ thông tin, báo cáo: Sở Tư pháp thường xuyên đăng Danh sách cá nhân, tổ chức giám định tư pháp trên địa bàn tỉnh. Các sở, ngành đa số thực hiện tốt chế độ báo cáo định kỳ và báo cáo đột xuất theo yêu cầu của Bộ Tư pháp, Uỷ ban nhân dân tỉnh về công tác tổ chức và hoạt động giám định tư pháp.

III. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ:

1. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung Luật Giám định tư pháp:

- Tại Điều 10 Luật Giám định tư pháp quy định các trường hợp miễn nhiệm giám định viên tư pháp, tuy nhiên không quy định trường hợp miễn nhiệm do chuyển công tác đến đơn vị khác và không còn thực hiện hoạt động giám định, dẫn đến số lượng giám định viên tư pháp theo thống kê hằng năm không phản ánh đúng số lượng giám định viên đang hoạt động thực tế tại địa phương;

- Về quy định bổ nhiệm lại giám định viên tư pháp: Pháp luật chưa quy định việc bổ nhiệm lại hoặc cấp lại quyết định bổ nhiệm trong trường hợp quyết định bổ nhiệm giám định viên tư pháp bị rách, bị mất hoặc bị thất lạc.

2. Kiến nghị, đề xuất giải pháp tiếp tục thực hiện có hiệu quả chủ trương xã hội hóa hoạt động giám định tư pháp phù hợp với tình hình thực tế: Xây dựng cơ chế ưu đãi riêng đối với các tổ chức giám định tư pháp ngoài công lập (ngoài việc miễn thuế của Trung ương thì có thể ưu đãi thêm các vấn đề khác như miễn thuế đất đai, tạo điều kiện vay tiền mua trang thiết bị...), mở rộng lĩnh vực thường phát sinh nhu cầu giám định tư pháp như giám định tài liệu, giám định chữ ký.

Thông tinFalseNguyễn Thị Vân Anh
Phụ lục báo cáo danh sách ngưởi, tổ chức giám định tư pháp và tình hình tổ chức và hoạt động giám định tư pháp năm 2018TinPhụ lục báo cáo danh sách ngưởi, tổ chức giám định tư pháp và tình hình tổ chức và hoạt động giám định tư pháp năm 2018/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
11/16/2018 4:00 PMNoĐã ban hành

PHỤ LỤC BÁO CÁO.docx

(Số liệu báo cáo từ ngày 01/10/2017 đến 30/9/2018)​

Thông tinFalsePhòng Bổ trợ Tư pháp
Đề cương và Phụ lục Báo cáo tổng kết thi hành Luật Giám định tư phápTinĐề cương và Phụ lục Báo cáo tổng kết thi hành Luật Giám định tư pháp/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
9/13/2018 9:00 AMYesĐã ban hành

​Đề cương Báo cáo Tổng kết Luật Giám định tư pháp: Tải DE CUONG HUONG DAN BC TONG KET LGDTP.docx

Phụ lục Báo cáo Tổng kết Luật Giám định tư pháp: Tải PHU LUC BC TONG KET LGDTP.docx

Hướng dẫn nghiệp vụFalseNguyễn Thị Vân Anh
Hội nghị trực tuyến toàn quốc triển khai Đề án “Tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp”TinHội nghị trực tuyến toàn quốc triển khai Đề án “Tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp”/bo-tro-tu-phap/PublishingImages/2018-07/hoinghitructuyengdtp12018_Key_16072018160253.jpg
7/16/2018 4:00 PMYesĐã ban hành

     ​Ngày 6/7/2018, Bộ Tư pháp tổ chức Hội nghị trực tuyến toàn quốc triển khai Đề án “Tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp”. Chủ trì Hội nghị là Thứ trưởng Bộ Tư pháp Trần Tiến Dũng. Hội nghị được tổ chức bằng hình thức trực tuyến tại 64 điểm cầu trên cả nước. 

hoinghitructuyengdtp12018.jpg

     Tại điểm cầu Bình Dương, Bà Nguyễn Anh Hoa – Giám đốc Sở Tư pháp chủ trì Hội nghị cùng với sự tham gia của đại diện lãnh đạo Tòa án nhân dân, Viện Kiểm Sát, Công an tỉnh, Sở Tài Chính, Sở Y tế, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Ngân hàng Nhà nước – Chi nhánh Bình Dương, Phòng Kỹ Thuật hình sự - Công an tỉnh, Trung tâm Pháp y tỉnh.

     Tại Hội nghị, đại diện lãnh đạo Cục Bổ trợ Tư pháp đã trình bày một số nội dung cơ bản của Đề án 250 và Quy chế phối hợp liên ngành về giám định tư pháp. Mục tiêu của Đề án nhằm tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động và quản lý giám định tư pháp, tạo chuyển biến căn bản, đột phá về chất lượng và hiệu quả hoạt động giám định tư pháp, góp phần nâng cao chất lượng của hoạt động tố tụng, phòng, chống tội phạm, tham nhũng, đồng thời tạo động lực mới thúc đẩy xã hội hóa mạnh mẽ hoạt động giám định tư pháp.

Các đại biểu tham dự hội nghị dành thời gian tham luận về những giải pháp và kiến nghị nhằm bảo đảm tiếp tục nâng cao chất lượng hoạt động giám định tư pháp. Các tham luận cũng tập trung bàn về phương hướng, giải pháp bảo đảm tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp tại các địa phương.

     Cũng trong Hội nghị, Bà Nguyễn Anh Hoa – đại diện Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương và các đại biểu tại Bình Dương đã có những trao đổi, thảo luận và đề ra các giải pháp nhằm tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong hoạt động giám định tư pháp của tỉnh; đồng thời tiếp tục có những phương hướng hoạt động cụ thể trong thời gian tới nhằm ngày càng nâng cao chất lượng hoạt động giám định tư pháp trên địa bàn tỉnh./.


Thông tin; Tin ngành tư phápFalseNguyễn Thị Vân Anh
Nội dung cơ bản của Quy chế phối hợp số 992/QCPH-BTP-BCA-BQP-VKSNDTC-TANDTC ngày 26/3/2018 về quy chế phối hợp liên ngành trong công tác giám định tư phápTinNội dung cơ bản của Quy chế phối hợp số 992/QCPH-BTP-BCA-BQP-VKSNDTC-TANDTC ngày 26/3/2018 về quy chế phối hợp liên ngành trong công tác giám định tư pháp/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
6/11/2018 5:00 PMNoĐã ban hành

Luật giám định tư pháp, Quyết định số 1549/QĐ-TTg ngày 16/10/2012 của Thủ tướng Chính phủ về Kế hoạch triển khai thi hành Luật giám định tư pháp, Nghị định số 85/2013/NĐ-CP ngày 29/7/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật giám định tư pháp và Đề án 258 có nhiều quy định về phối hợp giữa Bộ Tư pháp với các Bộ, ngành trong việc xây dựng, ban hành các văn bản hướng dẫn về tổ chức, hoạt động, quản lý giám định tư pháp (Mục 3 phần II của Kế hoạch triển khai thi hành Luật GĐTP theo QĐ số 1549/QĐ-TTg), đặc biệt là sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng ở cấp Trung ương, nhất là Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Khoản 2, Khoản 3 Điều 42 và Khoản 3 Điều 44 của Luật giám định tư pháp) trong việc thống kê, báo cáo về tình hình trưng cầu, yêu cầu giám định, đánh giá về tình hình thực hiện giám định, sử dụng kết luận giám định trong hoạt động tố tụng. Thời gian qua, quan hệ phối hợp giữa ngành tư pháp (Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp) với các cơ quan tiến hành tố tụng trong quản lý giám định tư pháp đã được quan tâm, cải thiện một bước nhưng còn nhiều hạn chế, bất cập như còn thiếu thông tin, số liệu thống kê về trưng cầu, đánh giá, sử dụng kết luận giám định trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử nên việc quy hoạch, phát triển đội ngũ người, tổ chức giám định tư pháp và nhiều giải pháp quản lý còn thiếu căn cứ thực tiễn của hoạt động tố tụng... Nhiều vướng mắc, khó khăn trong tổ chức, hoạt động, quản lý giám định tư pháp chưa được kịp thời thông tin, phối hợp giải quyết, làm hạn chế hiệu quả hoạt động, quản lý giám định tư pháp. Vì vậy, để khắc phục những hạn chế nếu trên và bảo đảm đáp ứng tốt yêu cầu ngày cao của hoạt động tố tụng đối với giám định tư pháp thì liên ngành giữa Bộ Tư pháp - Bộ Công an - Bộ Quốc phòng - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Tòa án nhân dân tối cao (sau đây gọi tắt là liên ngành) đã xây dựng và ban hành Quy chế phối hợp liên ngành số 992/QCPH-BTP-BCA-BQP-VKSNDTC-TANDTC ngày 26/3/2018 về giám định tư pháp. Chúng tôi xin giới thiệu những nội dung cơ bản của Quy chế phối hợp liên ngành như sau:

1. Quan điểm chỉ đạo và mục đích của việc ban hành Quy chế phối hợp
a) Quan điểm chỉ đạo
- Tiếp tục cụ thể hóa các quy định của Luật giám định tư pháp, Nghị định số 85/2013/NĐ-CP ngày 29/7/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật giám định tư pháp, các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về giám định tư pháp và các văn bản khác có liên quan trong việc phối hợp giữa các Bộ, ngành quản lý giám định tư pháp, cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan, tổ chức, hoạt động, quản lý giám định tư pháp, nhằm bảo đảm phù hợp với tính chất, đặc thù và yêu cầu thực tiễn của công tác giám định tư pháp.
- Sự phối hợp liên ngành về giám định tư pháp phải bảo đảm tạo lập cơ chế thông tin thông suốt, kịp thời và phối hợp toàn diện, hiệu quả nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, quản lý giám định tư pháp, đáp ứng tốt yêu cầu của hoạt động tố tụng trong thời gian tới.
- Quy định cụ thể trách nhiệm của từng cơ quan phối hợp và cơ quan có liên quan; bảo đảm tính khả thi và hiệu quả của Quy chế phối hợp trên thực tế.
b) Mục đích
Việc xây dựng Quy chế phối hợp nhằm tăng cường vai trò, trách nhiệm, năng lực tổ chức thực hiện và sự phối hợp giữa cơ quan giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về công tác giám định tư pháp với các cơ quan tiến hành tố tụng cấp Trung ương và cơ quan có liên quan đối với công tác giám định tư pháp. Qua đó, thúc đẩy thực hiện đầy đủ và có hiệu quả các quy định của pháp luật về giám định tư pháp; kịp thời giải quyết, tháo gỡ các vướng mắc, khó khăn trong hoạt động giám định, quản lý giám định tư pháp; bảo đảm tăng cường hiệu quả hoạt động, quản lý giám định tư pháp, góp phần quan trọng vào việc đáp ứng tốt yêu cầu của hoạt động tố tụng trong bối cảnh đẩy mạnh cải cách tư pháp và phòng, chống tham nhũng ở nước ta trong thời gian tới.
2. Nội dung cơ bản của Quy chế phối hợp
a) Phạm vi điều chỉnh
Quy chế phối hợp liên ngành về giám định tư pháp quy định cơ chế thông tin, phối hợp giữa Bộ Tư pháp và Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao trong công tác quản lý nhà nước về giám định tư pháp và giải quyết các vướng mắc, khó khăn về giám định tư pháp trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử nói chung và giải quyết án kinh tế, tham nhũng nói riêng (Điều 1).
b) Nguyên tắc phối hợp
Hoạt động phối hợp được thực hiện trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp và các Bộ, ngành nhằm hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Đồng thời, hoạt động phối hợp phải được thực hiện thường xuyên, kịp thời, đảm bảo chính xác, công khai, minh bạch và bảo đảm nguyên tắc bí mật nhà nước, bí mật công tác theo quy định của pháp luật (Điều 3).
c) Các hình thức phối hợp liên ngành
Các cơ quan thực hiện việc thông tin, phối hợp với nhau về giám định tư pháp bằng các hình thức: (1) trao đổi trực tiếp, gửi công văn, thông báo bằng văn bản, tổ chức họp liên ngành, hoặc hình thức khác liên quan đến giám định tư pháp thuộc thẩm quyền giải quyết; (2) cung cấp số liệu về tổ chức, hoạt động, quản lý giám định tư pháp và các tài liệu có liên quan về giám định tư pháp; (3) kiểm tra liên ngành về công tác giám định tư pháp.
d) Những nội dung và cách thức phối hợp cụ thể
Chương II của Quy chế phối hợp liên ngành quy định nội dung, cách thức phối hợp, trách nhiệm cụ thể của từng cơ quan chủ trì, phối hợp đối với mỗi nội dung phối hợp. Cụ thể như sau:
- Điều 5 của Quy chế quy định cơ chế phối hợp giữa Bộ Tư pháp và Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao trong việc xây dựng, ban hành văn bản về giám định tư pháp, trong đó xác lập nguyên tắc khi cần có sự phối giữa liên ngành về xây dựng, ban hành văn bản về giám định tư pháp thì các cơ quan chủ trì, phối hợp phải thực hiện tốt trách nhiệm của mình (chủ trì soạn thảo hoặc tham gia ý kiến theo đề nghị của cơ quan chủ trì) theo đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp luật về ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Để phát huy vai trò, trách nhiệm của Cơ quan giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về giám định tư pháp, Điều này của Quy chế đã quy định Bộ Tư pháp có trách nhiệm thông báo, đôn đốc các cơ quan phối hợp, cơ quan, tổ chức có liên quan trong việc xây dựng, ban hành văn bản về giám định tư pháp; cơ quan, tổ chức được thông báo, đôn đốc có trách nhiệm rà soát, thông báo lại cho Bộ Tư pháp về tiến độ, kết quả thực hiện.
- Phối hợp giải quyết khó khăn, vướng mắc về giám định tư pháp trong hoạt động tố tụng được quy định tại Điều 6, trong đó quy định rõ cơ chế, trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng (Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao) trong việc chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan và Ban Nội chính Trung ương trong việc giải quyết các vướng mắc, khó khăn trong trưng cầu, đánh giá sử dụng kết luận giám định ở giai đoạn tố tụng thuộc thẩm quyền của Bộ, ngành mình; bên cạnh đó, theo đề nghị của cơ quan phối hợp, Bộ Tư pháp có trách nhiệm đôn đốc Bộ, cơ quan ngang Bộ quản lý lĩnh vực giám định tư pháp giải quyết vướng mắc, khó khăn.
- Phối hợp trong việc hướng dẫn thống kê và cung cấp thông tin, số liệu thống kê về giám định tư pháp trong hoạt động tố tụng được quy định tại Điều 7, trong đó quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng (Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao) trong việc chỉ đạo thực hiện thống kê về trưng cầu, đánh giá, sử dụng kết luận giám định tư pháp trong giai đoạn tố tụng thuộc thẩm quyền và định kỳ 6 tháng, hằng năm cung cấp cho Bộ Tư pháp để phục vụ cho quản lý nhà nước về giám định tư pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám định phục vụ tốt yêu cầu của hoạt động tố tụng.
- Phối hợp trong kiểm tra về giám định tư pháp được quy định tại Điều 8, trong đó quy định nguyên tắc trường hợp cần thiết và trong phạm vi thẩm quyền quản lý nhà nước, Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các cơ quan phối hợp và cơ quan, tổ chức có liên quan tiến hành kiểm tra công tác giám định tư pháp. Cục Bổ trợ tư pháp có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với đơn vị đầu mối của các cơ quan phối hợp (Tổng cục Cảnh sát Bộ Công an, Vụ Pháp chế Bộ Quốc phòng, Vụ Pháp chế và quản lý khoa học Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Vụ Pháp chế và quản lý khoa học Tòa án nhân dân tối cao) xây dựng kế hoạch kiểm tra, trình Lãnh đạo Bộ Tư pháp phê duyệt và tổ chức thực hiện kiểm tra liên ngành về giám định tư pháp.
- Phối hợp trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về giám định tư pháp được quy định tại Điều 9, trong đó quy định rõ cơ chế phối hợp, trách nhiệm của các cơ quan phối hợp trong việc chủ trì, phối hợp giải quyết các khiếu nại tố cáo thuộc thẩm quyền hoặc có liên quan theo nguyên tắc cơ quan nào tiếp nhận khiếu nại, tổ cáo thì giải quyết, trong trường hợp không thuộc thẩm quyền thì chuyển đến cơ quan có trách nhiệm để xử lý theo thẩm quyền; khi xử lý xong thì thông báo kết quả cho cơ quan đã chuyển đơn biết.
- Phối hợp trong tổ chức họp giao ban liên ngành về giám định tư pháp được quy định tại Điều 10, trong đó hằng năm Bộ Tư pháp chủ trì tổ chức họp họp giao ban liên ngành để thông tin, trao đổi và bàn các biện pháp giải quyết các vướng mắc, khó khăn về giám định tư pháp phát sinh, bảo đảm hiệu quả hoạt động, quản lý giám định tư pháp và đáp ứng tốt yêu cầu của hoạt động tố tụng.
d) Về tổ chức thực hiện
Chương III của Quy chế phối hợp quy định cụ thể đơn vị đầu mối của cơ quan phối hợp tại Điều 11; trách nhiệm của Bộ Tư pháp và các cơ quan phối hợp khác trong việc tổ chức thực hiện Quy chế tại Điều 12 và Điều 13; trách nhiệm của đơn vị đầu mối thuộc các cơ quan phối hợp là Cục Bổ trợ tư pháp Bộ Tư pháp, Tổng cục Cảnh sát Bộ Công an, Vụ Pháp chế Bộ Quốc phòng, Vụ Pháp chế và quản lý khoa học Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Vụ Pháp chế và quản lý khoa học Tòa án nhân dân tối cao trong việc tham mưu cho Lãnh đạo Bộ, ngành mình trong tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, trách nhiệm của cơ quan mình tại Điều 14; kinh phí bảo đảm thực hiện nhiệm vụ phối hợp của mỗi cơ quan theo nguyên tắc kinh phí phục vụ công tác phối hợp được ngân sách nhà nước cấp theo dự toán hàng năm của các cơ quan phối hợp theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước và trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình, các cơ quan phối hợp có trách nhiệm lập dự toán, thanh quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước cấp cho hoạt động phối hợp theo quy định của pháp luật (Điều 15) và hiệu lực thi hành của Quy chế này kể từ ngày ký ban hành - từ ngày 26/3/2018 (Điều 16).
          Để bảo đảm tổ chức hiệu quả Quy chế này trên thực tế thì liên ngành cần tiếp tục có hướng dẫn, chỉ đạo các cơ quan thuộc ngành mình ở cấp tỉnh triển khai thực hiện một số nhiệm vụ, nhất là về chỉ tiêu thống kê, tổ chức thực hiện giám định tư pháp trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng và cung cấp thông tin cho Sở Tư pháp và các Sở, ban ngành có liên quan bảo đảm phục vụ quản lý giám định tư pháp ở địa phương (như đổi mới, nâng cao chất lượng bổ nhiệm giám định viên tư pháp, lập và công bố danh tổ chức, người giám định tư pháp ở địa phương gắn với nhu cầu tố tụng của thực tế; tăng cường bồi dưỡng, đào tạo kiến thức pháp lý, nghiệp vụ giám định cho đội ngũ người giám định tư pháp, người tiến hành tố tụng ở địa phương theo quy định của Đề án tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp…) và bảo đảm hệ thống thông tin thông suốt, thống nhất từ địa phương lên Trung ương về giám định tư pháp; đồng thời cũng cần có cơ chế phối hợp kịp thời, hiệu quả giữa liên ngành ở địa phương để kịp thời giải quyết các vướng mắc, khó khăn trong trưng cầu, đánh giá, sử dụng kết luận giám định tư pháp của hoạt động tố tụng ở địa phương./.
Hải Đăng​
(Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp (www.moj.gov.vn))
Thông tinFalseNguyễn Thị Vân Anh
Một số nội dung cơ bản của Đề án tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư phápTinMột số nội dung cơ bản của Đề án tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
Sau 05 năm thực hiện Đề án “Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp” (Đề án 258), hầu hết các nhiệm vụ, giải pháp đã được tổ chức thực hiện có kết quả trên thực tế, khắc phục được những khó khăn, vướng mắc của hoạt động giám định tư pháp, đáp ứng yêu cầu tố tụng trong thời gian qua. Vì vậy, để tiếp tục thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm của Đề án 258 cũng như bổ sung, hoàn thiện các nhiệm vụ mới nhằm tăng cường hơn nữa hiệu lực, hiệu quả của hoạt động giám định tư pháp cũng như đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của hoạt động tố tụng trong giai đoạn tiếp theo thì việc xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ dự thảo Quyết định phê duyệt Đề án tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp là yêu cầu cần thiết, khách quan. Thực hiện Chương trình công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ năm 2017, Bộ Tư pháp đã phối hợp với các Bộ, ngành hữu quan xây dựng dự thảo Đề án tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp. Ngày 28/02/2018 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 250/QĐ-TTg phê duyệt Đề án tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp (Đề án 250).
5/31/2018 5:00 PMNoĐã ban hành

Đề án bao gồm một số nội dung cơ bản như sau:
1. Mục tiêu của Đề án 250
Đề án 250 được ban hành nhằm tiếp tục đổi mới và tạo chuyển biến mạnh mẽ, đột phá về chất lượng, hiệu quả hoạt động giám định tư pháp, nâng cao chất lượng của hoạt động tố tụng trong thời gian tới và thúc đẩy xã hội hóa hoạt động giám định tư pháp.
Trên cơ sở mục tiêu tổng quát, Đề án 250 đã xác định rõ 07 mục tiêu cụ thể cần đạt được trong 05 năm tới để công tác giám định tư pháp phát triển bền vững, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới: (1) Hoàn thiện thể chế về giám định tư pháp bảo đảm đầy đủ, đồng bộ, khả thi, phù hợp với tình hình mới; (2) Hoàn thiện hệ thống tổ chức pháp y tâm thần theo hướng chú trọng yếu tố trọng điểm, khu vực; (3) Đào tạo nguồn nhân lực pháp y, pháp y tâm thần về số lượng, chất lượng chuyên môn và kiến thức pháp lý; (4) Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại cho tổ chức giám định tư pháp công lập; (5) Nghiên cứu, kiến nghị cơ chế phù hợp để tổ chức thực hiện giám định theo yêu cầu của hoạt động tố tụng trong các lĩnh vực không có tổ chức giám định tư pháp công lập chuyên trách và đề ra giải pháp đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động giám định tư pháp; (6) Kiến nghị chính sách bảo đảm việc đãi ngộ và thu hút người làm giám định; (7) Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước và giữa cơ quan quản lý nhà nước với cơ quan trưng cầu giám định.
2. Các nhiệm vụ và giải pháp của Đề án 250
Trên cơ sở kết quả tổng kết 05 năm thực hiện Đề án 258 và mục tiêu cần đạt được trong giai đoạn tiếp theo, Đề án 250 đã đưa ra 03 nhóm nhiệm vụ với 15 giải pháp trọng tâm, cụ thể:
Nhóm nhiệm vụ thứ nhất tập trung vào việc tiếp tục hoàn thiện chế định giám định tư pháp. Ngay trong năm 2018, các cơ quan tiến hành tố tụng phải ban hành văn bản hướng dẫn việc trưng cầu, đánh giá, sử dụng kết luận giám định tư pháp trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Đồng thời, cũng trong năm 2018, các Bộ, cơ quan ngang Bộ cần rà soát, ban hành đầy đủ các văn bản quy định về quy trình giám định hoặc hướng dẫn áp dụng quy trình giám định ở các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, xây dựng, văn hóa, tài nguyên và môi trường, đầu tư, thông tin và truyền thông, nông nghiệp và phát triển nông thôn, công thương, khoa học và công nghệ…trong đó quy định rõ thời hạn giám định ở từng lĩnh vực, bảo đảm hoạt động giám định tư pháp được thực hiện theo trình tự thống nhất trong cả nước.
Nhóm nhiệm vụ thứ hai tập trung vào việc hoàn thiện tổ chức giám định tư pháp; nâng cao chất lượng người giám định tư pháp; đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện phục vụ giám định.
Về hoàn thiện tổ chức giám định tư pháp, trước mắt, trong năm 2018, Bộ Y tế cần nghiên cứu, thành lập Phân viện Viện Pháp y tâm thần Trung ương tại Bắc miền Trung, Phân viện Viện Pháp y tâm thần Trung ương Biên Hòa tại Nam Trung Bộ và các khu vực khác để đáp ứng kịp thời yêu cầu của hoạt động tố tụng về giám định pháp y tâm thần. Bộ Công an, Bộ Quốc phòng rà soát, củng cố hệ thống tổ chức giám định kỹ thuật hình sự theo hướng tinh gọn, không thành lập mới và đầu tư trọng điểm khu vực.
Về nâng cao chất lượng người giám định tư pháp, đối với các Bộ, cơ quan ngang Bộ chưa có đơn vị đầu mối để tiếp nhận, báo cáo người có thẩm quyền quyết định phân công tổ chức, cá nhân thuộc thẩm quyền quản lý thực hiện giám định thì ngay trong quý II năm 2018 cần chỉ định đơn vị đầu mối và có biện pháp tăng cường năng lực, trách nhiệm của đơn vị này. Đồng thời, hằng năm, các Bộ, cơ quan ngang Bộ cần tăng cường bồi dưỡng, tập huấn kiến thức pháp lý, nghiệp vụ giám định cho đội ngũ người giám định tư pháp và người tiến hành tố tụng. Riêng đối với đội ngũ giám định viên pháp y, pháp y tâm thần, để góp phần nâng cao chất lượng của đội ngũ này, Bộ Y tế cần nghiên cứu, kiến nghị các giải pháp hiệu quả thực hiện Đề án “khuyến khích đào tạo và phát triển nhân lực y tế các chuyên ngành lao, phong, tâm thần, pháp y và giải phẫu bệnh giai đoạn 2013-2020”. Cuối cùng, để huy động được tối đa đội ngũ các tổ chức chuyên môn và chuyên gia giỏi ở các lĩnh vực đang có nhu cầu giám định tư pháp tăng cao tham gia vào hoạt động giám định tư pháp theo cơ chế cung cấp dịch vụ thì Bộ Tư pháp cần nghiên cứu, xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ Quyết định phê duyệt Đề án đẩy mạnh xã hội hóa giám định tư pháp sao cho bảo đảm điều kiện để thực hiện xã hội hóa được các lĩnh vực này trên thực tế.
Về cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện phục vụ giám định, Bộ Công an, Bộ Y tế, Bộ Quốc phòng cần nghiên cứu, kiến nghị các giải pháp sử dụng nguồn ngân sách Trung ương đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện phục vụ giám định cho tổ chức giám định tư pháp công lập trong lĩnh vực Bộ mình quản lý. Đồng thời, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cũng có các giải pháp sử dụng ngân sách để đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cho Trung tâm pháp y tại địa phương mình.
Nhóm nhiệm vụ thứ ba tập trung vào việc tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về giám định tư pháp. Để thực hiện nhiệm vụ này, mỗi Bộ, cơ quan ngang Bộ cần có giải pháp để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước của Bộ mình và giữa các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan tiến hành tố tụng với nhau cần nâng cao cơ chế phối hợp sao cho chặt chẽ, hiệu quả.
Vì vậy, về phía từng Bộ, cơ quan ngang Bộ, trong năm 2018 cần đổi mới quy trình rà soát lập và công bố danh sách người làm giám định tư pháp theo vụ việc đảm bảo chính xách, thuận lợi trong hoạt động trưng cầu giám định. Đồng thời, cần hoàn thiện chính sách đãi ngộ, thu hút nhân lực làm giám định tư pháp. Bộ Tư pháp với tư cách là cơ quan giúp Chính phủ quản lý chung về giám định tư pháp sẽ chủ trì nghiên cứu trình Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung Quyết định số 01/2014/QĐ-TTg về chế độ bồi dưỡng giám định tư pháp cho phù hợp với thực tế. Riêng Bộ Y tế với đặc thù quản lý đội ngũ giám định viên pháp y, pháp y tâm thần đang đứng trước thực trạng thiếu hụt nhân lực trầm trọng thì cần khẩn trương nghiên cứu, trình cơ quan có thẩm quyền ban hành các chế độ đặc thù cho nhóm đối tượng này như chế độ trực, chế độ phụ cấp thâm niên và việc kéo dài thời gian công tác. Bên cạnh đó, hằng năm, các Bộ, cơ quan ngang Bộ cần phải tăng cường kiểm tra, thanh tra tình hình tổ chức, hoạt động giám định tư pháp, việc thực hiện nhiệm vụ của các bộ, ngành, địa phương và các cơ quan tiến hành tố tụng về giám định tư pháp.
Đối với việc nâng cao cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước với nhau cũng như giữa cơ quan quản lý nhà nước với cơ quan tiến hành tố tụng thì Viện kiểm sát nhân dân tối cao được giao trong năm 2018 chủ trì, phối hợp với Ban Nội chính Trung ương, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao và các cơ quan có liên quan để nghiên cứu, trình Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng thành lập Tổ tư vấn liên ngành về công tác giám định tư pháp để kịp thời tham mưu các giải pháp tháo gỡ vướng mắc, khó khăn về giám định tư pháp trong quá trình chỉ đạo, giải quyết các vụ án tham nhũng. Bộ Tư pháp chủ trì ban hành Quy chế phối hợp liên ngành giữa Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao. Bộ Công an chủ trì ban hành Quy chế phối hợp giữa cơ qua trưng cầu giám định với cơ quan, tổ chức được trưng cầu và thực hiện giám định. Hai Quy chế phối hợp này cũng phải được ban hành trong năm 2018. Giải pháp cuối cùng trong nhóm nhiệm vụ này là tổ chức họp giao ban liên ngành định kỳ hằng năm để thông tin, đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ của các bộ, ngành, địa phương và kịp thời tháo gỡ các vướng mắc, khó khăn về giám định tư pháp.
3. Yêu cầu đặt ra với các Bộ, ngành, địa phương trong quá trình triển khai Đề án 250
Để bảo đảm thực thi các nhiệm vụ và giải pháp của Đề án 250, yêu cầu đầu tiên đặt ra đối với các Bộ, ngành, địa phương là cần khẩn trương triển khai, có kế hoạch thực hiện Đề án tại Bộ, ngành, địa phương mình; trong đó, cần xác định rõ nhiệm vụ cần thực hiện, thời hạn hoàn thành. Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố cũng khẩn trương tổ chức quán triệt, xây dựng Kế hoạch triển khai Đề án, phân công nhiệm vụ cụ thể cho các Sở, ngành ở địa phương mình. Để bảo đảm điều kiện kinh phí thực hiện các nhiệm vụ được giao, các Bộ, ngành, địa phương cần xây dựng dự toán để gửi cấp có thẩm quyền phê duyệt. Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan hướng dẫn việc lập dự toán, quản lý và sử dụng kinh phí để bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ, hoạt động của Đề án.
Các Bộ, ngành, địa phương cần tiếp tục củng cố, kiện toàn, bảo đảm điều kiện và nâng cao chất lượng hoạt động của Ban Chỉ đạo và Tổ thư ký giúp việc Ban Chỉ đạo thực hiện Đề án ở cấp Trung ương và các địa phương. Trước hết, các Bộ, ngành, địa phương phải rà soát lại danh sách Ban Chỉ đạo Đề án, lựa chọn những người có năng lực, trách nhiệm, tâm huyết, thực sự là đại diện của các cơ quan, đơn vị chức năng để giúp Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc triển khai thực hiện Đề án. Đồng thời, cần đổi mới cách thức, chất lượng các cuộc họp của Ban Chỉ đạo để thực hiện hiệu quả, kịp thời, đầy đủ các nhiệm vụ, giải pháp của Đề án.
Cuối cùng, các Bộ, ngành có trách nhiệm hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc việc triển khai thực hiện Đề án ở ngành, lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý. Bộ Tư pháp có trách nhiệm làm đầu mối hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc việc triển khai thực hiện Đề án. Trong thời gian tới, Bộ Tư pháp sẽ tăng cường chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, cơ quan có liên quan để tiến hành kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ được giao của Bộ, ngành, địa phương./.
                                                  ​Vân Anh - Cục Bổ trợ tư pháp, Bộ Tư pháp

​(Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp (www.moj.gov.vn)​)

Thông tinFalseNguyễn Thị Vân Anh
Danh sách cá nhân, tổ chức Giám định tư pháp trên địa bàn tỉnh Bình Dương năm 2017TinDanh sách cá nhân, tổ chức Giám định tư pháp trên địa bàn tỉnh Bình Dương năm 2017/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
1/26/2018 3:00 PMNoĐã ban hành
Danh sáchFalsePhòng Bổ trợ Tư pháp
1 - 30Next
Ảnh
Video
Audio