Trong bối cảnh cuộc Cách mạnh công nghiệp lần thứ tư đang tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, việc đẩy mạnh phát triển Chính phủ điện tử, hướng tới Chính phủ số, xã hội số và nền kinh tế số nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của cơ quan nhà nước, chất lượng phục vụ người dân, doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh của quốc gia là một trong những nội dung quan trọng trong Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021 - 2030 và cũng là xu hướng tất yếu, khách quan đối với mọi quốc gia trên thế giới. Trong những năm vừa qua, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản xác định những mục tiêu, nội dung phát triển Chính phủ điện tử, hướng tới Chính phủ số như Nghị quyết số 17/NQ-CP ngày 07/3/2019 của Chính phủ về một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển Chính phủ điện tử giai đoạn 2019 - 2020, định hướng đến 2025 (Nghị quyết số 17/NQ-CP); Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 (Quyết định số 749/QĐ-TTg); Quyết định số 942/QĐ-TTg ngày 15/6/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030 (Quyết định số 942/QĐ-TTg) và Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 15/7/2021 của Chính phủ ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021 - 2030 (Nghị quyết số 76/NQ-CP). Theo đó, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào trong mọi hoạt động của nền hành chính nhà nước và các lĩnh vực của đời sống xã hội là một trong những nhiệm vụ quan trọng với mục tiêu tăng cường năng lực, hiệu quả điều hành của Chính phủ, đem lại sự hài lòng của người dân, doanh nghiệp, tăng cường sự minh bạch của nền hành chính quốc gia, tinh gọn bộ máy để giảm chi tiêu của Chính phủ và nâng cao đạo đức công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, đồng thời tạo thuận lợi, nhanh chóng, giảm thời gian, chi phí, nhân lực, việc đi lại và giảm giao dịch trực tiếp cho người dân, doanh nghiệp…
Trong hoạt động cung cấp dịch vụ công, Bộ Tư pháp luôn xác định việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến là một trong những khâu đột phá mang tính chiến lược của tiến trình cải cách hành chính theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, có năng lực kiến tạo phát triển, liêm chính, phục vụ nhân dân như mục tiêu chung mà Nghị quyết số 76/NQ-CP đã đề ra. Những năm vừa qua, Bộ Tư pháp - bên cạnh việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong các lĩnh vực quản lý, hoạt động của Bộ thì việc hoàn thiện thiết chế về quản lý các hệ thống thông tin trong đó có thiết chế về quản lý đăng ký trực tuyến và thông tin dữ liệu về biện pháp bảo đảm đang được Bộ tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện.
1. Thực trạng quản lý đăng ký trực tuyến và thông tin dữ liệu về biện pháp bảo đảm hiện nay
Đăng ký trực tuyến về biện pháp bảo đảm là một trong những dịch vụ công trực tuyến của Bộ Tư pháp, có vai trò rất quan trọng, liên quan trực tiếp đến bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản trong giao dịch dân sự, ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của người dân, doanh nghiệp. Do vậy, việc hoàn thiện thiết chế về đăng ký biện pháp bảo đảm nói chung, thiết chế về quản lý đăng ký trực tuyến và thông tin dữ liệu về biện pháp bảo đảm nói riêng là rất cần thiết, thông qua hệ thống pháp luật, tổ chức bộ máy quản lý, hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật, cùng các giải pháp đồng bộ khác. Trong đó, xây dựng, hoàn thiện pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm cần được coi trọng nhằm tạo khung pháp lý khẳng định vị trí, vai trò của đăng ký biện pháp bảo đảm. Thông qua đó, tạo sự thống nhất về nhận thức và tổ chức triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách của Chính phủ; đồng thời, pháp quy hóa các chế độ, chính sách bảo đảm để công tác đăng ký biện pháp bảo đảm được thực hiện theo đúng định hướng đã đề ra.
1.1. Về xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật
Từ năm 2010, nhằm tạo đầy đủ cơ sở pháp lý cho việc triển khai hệ thống đăng ký trực tuyến trong lĩnh vực đăng ký biện pháp bảo đảm bằng động sản, Bộ Tư pháp đã tham mưu, trình Chính phủ ban hành Nghị định số 83/2010/NĐ-CP ngày 23/7/2010 về đăng ký giao dịch bảo đảm, trong đó có nội dung quy định về đăng ký trực tuyến. Trên cơ sở đó, ngày 06/12/2010, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 22/2010/TT-BTP hướng dẫn về đăng ký, cung cấp thông tin trực tuyến giao dịch bảo đảm, hợp đồng, thông báo việc kê biên tài sản thi hành án. Các quy định về đăng ký trực tuyến tiếp tục được hoàn thiện, pháp điển hóa tại Nghị định số 102/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về đăng ký biện pháp bảo đảm, hiện tại là Nghị định số 99/2022/NĐ-CP ngày 30/11/2022 của Chính phủ về đăng ký biện pháp bảo đảm (Nghị định số 99/2022/NĐ-CP), có hiệu lực thi hành từ 15/01/2023 với nhiều nội dung mới nhằm thể chế hóa chủ trương, chính sách về chuyển đổi số của Đảng và Chính phủ như: Hoàn thiện quy trình đăng ký trực tuyến biện pháp bảo đảm, bổ sung cơ chế cung cấp thông tin giữa cơ quan đăng ký với cơ quan có thẩm quyền, người có thẩm quyền thông qua việc cấp mã số sử dụng cơ sở dữ liệu để tự tra cứu, khai thác thông tin trong cơ sở dữ liệu; cơ chế kết nối, chia sẻ dữ liệu về đăng ký biện pháp bảo đảm… Các văn bản quy phạm phạm pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm được ban hành đã đáp ứng các yêu cầu cải cách thủ tục hành chính theo hướng chú trọng đăng ký trực tuyến, cải tiến quy trình đăng ký, cung cấp thông tin, bảo đảm thuận tiện, khoa học và giảm chi phí như đơn giản và minh bạch hóa hồ sơ, thủ tục đăng ký; loại bỏ các giấy tờ không cần thiết trong hồ sơ đăng ký; rút ngắn thời hạn giải quyết thủ tục hành chính…
1.2. Về tổ chức bộ máy quản lý
Về tổ chức bộ máy thực hiện nhiệm vụ quản lý hệ thống đăng ký trực tuyến và thông tin dữ liệu về biện pháp bảo đảm hiện nay đang được giao cho một đơn vị cấp phòng thực hiện, đơn vị này vừa có chức năng tham mưu việc ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực đăng ký biện pháp bảo đảm, vừa triển khai thực hiện việc quản lý, vận hành hệ thống đăng ký trực tuyến và thông tin dữ liệu về biện pháp bảo đảm, vừa xây dựng, góp ý các văn bản liên quan đến ứng dụng công nghệ thông tin của Bộ, Ngành; với khối lượng nhiệm vụ, công việc rất lớn nhưng số lượng biên chế để thực hiện các nhiệm vụ nêu trên thì rất thiếu, hiện tại, với 02 biên chế làm trong lĩnh vực công nghệ thông tin thì thực sự là chưa hợp lý. Bên cạnh đó, thực hiện các nhiệm vụ được quy định tại Nghị định số 99/2022/NĐ-CP thì ngoài các nhiệm vụ nêu trên, đơn vị này còn phải thực hiện thêm một số nhiệm vụ mới, đòi hỏi cần phải có thêm biên chế để thực hiện như: Thực hiện nhiệm vụ cung cấp thông tin cho các cơ quan có thẩm quyền, người có thẩm quyền phục vụ công tác quản lý nhà nước, giải quyết thủ tục hành chính, hỗ trợ cơ quan có thẩm quyền, người có thẩm quyền trong thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn về hoạt động tố tụng, hoạt động thi hành án dân sự có liên quan; thực hiện nhiệm vụ chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan trong việc kết nối, tích hợp, chia sẻ dữ liệu về đăng ký biện pháp bảo đảm với hệ thống của các cơ quan có thẩm quyền và với hệ thống đăng ký tài sản, giao dịch khác... Ngoài ra, để thực hiện chương trình chuyển đổi số quốc gia, phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số, phát triển kinh tế số và xã hội số, nhiệm vụ liên quan đến lĩnh vực công nghệ thông tin sẽ ngày càng lớn. Nếu chiếu theo số lượng biên chế hiện tại để thực hiện các nhiệm vụ nêu trên thì khó có thể hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
1.3. Về hạ tầng kỹ thuật Hệ thống đăng ký trực tuyến
Hạ tầng kỹ thuật hệ thống đăng ký trực tuyến được cài đặt vận hành trên nền tảng hạ tầng kỹ thuật chung của Bộ Tư pháp, về cơ bản, hạ tầng kỹ thuật hệ thống đăng ký biện pháp bảo đảm trực tuyến đáp ứng được yêu cầu trong hoạt động đăng ký, cung cấp thông tin. Hệ thống máy móc, trang thiết bị phần cứng, phần mềm hoạt động ổn định, thông suốt, an toàn, hiệu quả đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, phục vụ tốt cho người dân, doanh nghiệp trong việc thực hiện đăng ký, cung cấp thông tin trực tuyến về đăng ký biện pháp bảo đảm.
Hệ thống đăng ký trực tuyến chính thức đưa vào vận hành từ ngày 19/3/2012 đạt mức độ 03 về dịch vụ công trực tuyến. Đây thực sự là một giải pháp thúc đẩy cải cách hành chính, nhằm giảm thiểu thời gian đăng ký, cung cấp thông tin về tài sản bảo đảm là động sản, giúp cho quá trình tiếp cận nguồn tín dụng của người dân, doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa nhanh hơn, tiết kiệm chi phí hơn, đồng thời, thông qua đó, đã khuyến khích sự lưu thông nguồn vốn, giúp thị trường tín dụng hoạt động hiệu quả, an toàn, góp phần thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển. Năm 2017, nhằm nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công trực tuyến, tạo nền tảng cho phát triển Chính phủ điện tử, Bộ Tư pháp tiếp tục phối hợp với các đơn vị liên quan hoàn thiện và nâng cấp phần mềm đăng ký trực tuyến biện pháp bảo đảm đạt mức độ 04 về dịch vụ công trực tuyến và chính thức triển khai cung cấp dịch vụ công mức độ 04 từ ngày 10/7/2017.
Thực hiện Nghị quyết số 17/NQ-CP, Quyết định số 749/QĐ-TTg, Quyết định số 942/QĐ-TTg, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 983/QĐ-BTP ngày 10/6/2021 về việc ban hành Kế hoạch “Chuyển đổi số Ngành Tư pháp đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. Theo đó, hệ thống đăng ký biện pháp bảo đảm trực tuyến tiếp tục được hoàn thiện. Từ ngày 04/10/2021, tất cả các thủ tục hành chính trong lĩnh vực đăng ký biện pháp bảo đảm bằng động sản được thực hiện hoàn toàn trên môi trường điện tử, từ việc tiếp nhận, giải quyết đến ký số và trả kết quả. Bên cạnh đó, thực hiện nhiệm vụ tích hợp, cung cấp dịch vụ công trên Cổng dịch vụ công quốc gia tại Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã khẩn trương phối hợp các đơn vị liên quan hoàn thiện hệ thống đăng ký trực tuyến biện pháp bảo đảm và chính thức tích hợp, cung cấp trên Cổng dịch vụ công quốc gia từ ngày 22/9/2022.
1.4. Một số kết quả đạt được
Thứ nhất, việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến đã góp phần khuyến khích người dân và doanh nghiệp trong việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ công về đăng ký biện pháp bảo đảm bằng động sản, vì vậy, số lượng đăng ký, tìm hiểu thông tin về biện pháp bảo đảm ngày càng tăng. Tính đến thời điểm tháng 5/2023, đã có hơn 7.400 tổ chức, cá nhân, trong đó chủ yếu là các tổ chức tín dụng được Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm, Bộ Tư pháp cấp mã số sử dụng cơ sở dữ liệu về biện pháp bảo đảm và tài khoản đăng ký trực tuyến. Trung bình mỗi ngày có hơn 3.000 yêu cầu đăng ký, cung cấp thông tin, hơn 1.200 văn bản thông báo thế chấp phương tiện giao thông được trao đổi với cơ quan đăng ký quản lý phương tiện và hơn 20.000 lượt tra cứu, tìm kiếm thông tin được thực hiện trực tiếp trên hệ thống đăng ký biện pháp bảo đảm trực tuyến, trong đó, yêu cầu đăng ký và cung cấp thông tin trực tuyến chiếm tỷ lệ 84% trên tổng số yêu cầu đăng ký, cung cấp thông tin. Điều này thể hiện sự tiếp nhận và mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp đối với hệ thống đăng ký biện pháp bảo đảm trực tuyến. Kết quả đăng ký biện pháp bảo đảm nêu trên đã góp phần quan trọng trong việc giúp người dân, doanh nghiệp thực hiện hiệu quả, an toàn hơn quyền về tài sản, giao dịch; góp phần huy động, thúc đẩy được nhiều nguồn lực tài chính vào thị trường, vận hành trên hành lang pháp lý an toàn; góp phần thực hiện công khai, minh bạch thông tin, tình trạng pháp lý của tài sản, giao dịch, giảm thiểu rủi ro pháp lý, thúc đẩy giao lưu dân sự, tăng tính ổn định cho giao dịch, giảm thiểu tranh chấp; giúp cơ quan giải quyết tranh chấp, cơ quan có thẩm quyền khác dễ dàng thu thập, kiểm tra thông tin, việc giải quyết thuận lợi, nhanh chóng, chính xác hơn, từ đó, góp phần vào cải thiện chỉ số hợp đồng khi đánh giá về năng lực cạnh tranh ở Việt Nam.
Thứ hai, đối với các tổ chức, cá nhân trong xã hội, đặc biệt là các tổ chức tín dụng, việc thực hiện đăng ký trực tuyến biện pháp bảo đảm giúp các chủ thể sẽ dễ dàng tiếp cận với dịch vụ đăng ký do Nhà nước cung cấp. Với hệ thống đăng ký biện pháp bảo đảm trực tuyến, người dân có thể trực tiếp truy cập và thực hiện thao tác đăng ký ở bất kỳ nơi nào có kết nối internet và liên tục 24/7 để có kết quả đăng ký ngay lập tức mà không phải chờ đợi và đến trụ sở của cơ quan đăng ký. Việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến toàn trình giúp tiết kiệm thời gian, chi phí trong việc đăng ký và tìm hiểu thông tin về tài sản bảo đảm, đồng thời giúp giảm thiểu rủi ro và tăng cường khả năng, cơ hội tiếp cận tín dụng để mở rộng đầu tư, sản xuất kinh doanh cho người dân và doanh nghiệp. Ngoài ra, một lợi ích rất lớn mà hệ thống đăng ký biện pháp bảo đảm trực tuyến đem lại cho người dân và doanh nghiệp đó là việc dễ dàng tiếp cận, tra cứu, tìm kiếm thông về biện pháp bảo đảm. Thông tin được hệ thống đăng ký biện pháp bảo đảm trực tuyến cung cấp một cách công khai, nhanh chóng, minh bạch, bảo đảm sự chính xác và an toàn pháp lý cho người dân và doanh nghiệp khi tra cứu, tìm hiểu thông tin về tình trạng pháp lý của tài sản bảo đảm trước khi giao kết hợp đồng, đầu tư cho vay vốn.
Thứ ba, đối với cơ quan đăng ký biện pháp bảo đảm thì việc áp dụng hệ thống đăng ký biện pháp bảo đảm trực tuyến sẽ giúp cắt giảm chi phí hành chính do ngân sách nhà nước cấp, đồng thời giúp ngăn chặn các hành vi tiêu cực có thể phát sinh trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đăng ký do cán bộ đăng ký không tiếp xúc trực tiếp với khách hàng. Ngoài ra, với việc vận hành hệ thống đăng ký biện pháp bảo đảm trực tuyến, Nhà nước đã cung cấp một cơ sở hạ tầng tài chính hiệu quả, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng phát triển các sản phẩm cho vay được bảo đảm bằng động sản.
1.5. Một số tồn tại, hạn chế
Một là, hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin, mặc dù đã được đầu tư nâng cấp thời gian gần đây, đáp ứng được yêu cầu phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số. Tuy nhiên, đến nay, hạ tầng kỹ thuật vẫn chưa được hoàn thiện đầy đủ, đặc biệt là hệ thống dự phòng để bảo đảm cho các hệ thống thông tin của Bộ Tư pháp, trong đó có hệ thống đăng ký biện pháp bảo đảm trực tuyến hoạt động ổn định, liên tục, an toàn chưa được xây dựng, ảnh hưởng không nhỏ đến công tác đăng ký, cung cấp thông tin trực tuyến.
Hai là, hiện nay, khối lượng công việc và yêu cầu nhiệm vụ đối với lĩnh vực ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số ngày càng cao. Trong khi đó, nguồn nhân lực thực hiện lại đang bị thiếu rất nhiều so với nhu cầu thực tế và hạn chế về chất lượng, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong thời gian tới. Bên cạnh đó, tình trạng quá tải trong công việc khiến cho các công chức quản lý trong lĩnh vực này nhiều khi sa vào giải quyết các công việc sự vụ, gấp, trước mắt, không dành nhiều thời gian cho các hoạt động mang tính chiến lược cũng như các hoạt động nghiên cứu thực tiễn.
2. Yêu cầu đặt ra trong việc quản lý đăng ký trực tuyến và thông tin dữ liệu về biện pháp bảo đảm
2.1. Yêu cầu từ người dùng
Hiện nay, với sự phát triển của khoa học công nghệ, nhu cầu sử dụng các dịch vụ, tiện ích công nghệ của người dân, doanh nghiệp ngày càng cao, đòi hỏi các dịch vụ công trực tuyến phục vụ người dân, doanh nghiệp, trong đó có dịch vụ công trực tuyến về đăng ký biện pháp bảo đảm cần phải tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện để cung cấp đầy đủ các dịch vụ, tiện ích cho người dân, doanh nghiệp trong việc thực hiện các dịch vụ công trực tuyến. Đối với hệ thống đăng ký biện pháp bảo đảm trực tuyến, mặc dù được các tổ chức, cá nhân trong nước và quốc tế đánh giá cao về sự thuận lợi, tiện ích cho người sử dụng nhưng cũng cần tiếp tục nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ vào hoạt động đăng ký biện pháp bảo đảm như xây dựng ứng dụng đăng ký đa phương tiện (app) để thực hiện đăng ký, yêu cầu cung cấp thông tin trên các thiết bị, nền tảng khác nhau như thiết bị di động; mở rộng thêm các phương thức thanh toán như thanh toán qua các ứng dụng ví điện tử…
Yêu cầu về đăng ký, cung cấp thông tin ngày càng tăng về số lượng, bảo đảm về chất lượng cung cấp dịch vụ; yêu cầu về tính kịp thời, liên tục trong hoạt động cung cấp dịch vụ; nhu cầu về sử dụng các ứng dụng trí tuệ nhận tạo (AI) trong việc thực hiện các dịch vụ công trực tuyến, đòi hỏi cơ quan quản lý luôn phải có sự đầu tư cả về cơ sở vật chất kỹ thuật và nguồn nhân lực để quản lý, vận hành và nâng cấp, hoàn thiện hệ thống đăng ký trực tuyến, bảo đảm cho hoạt động đăng ký, cung cấp thông tin luôn ổn định, thông suốt, an toàn, hiệu quả. Đặc biệt, cần xây dựng hệ thống dự phòng cho hệ thống đăng ký trực tuyến để bảo đảm tính liên tục, thông suốt, an toàn trong trường hợp có sự cố xảy ra.
2.2. Yêu cầu về chuyển đổi số
Thực hiện yêu cầu của Đảng, Nhà nước về việc đẩy mạnh chuyển đổi số trong hoạt động của cơ quan nhà nước các cấp, phát triển Chính phủ điện tử, hướng đến Chính phủ số, nhiệm vụ và khối lượng công việc hiện nay và trong tương lai liên quan đến lĩnh vực đăng ký trực tuyến về biện pháp bảo đảm là rất lớn như quản lý, vận hành hệ thống đăng ký trực tuyến; kết nối, tích hợp, chia sẻ dữ liệu về đăng ký biện pháp bảo đảm; cung cấp thông tin cho các cơ quan có thẩm quyền, người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng, hoạt động thi hành án dân sự... Do vậy, cần thiết phải có một đơn vị chuyên trách về công nghệ thông tin trong lĩnh vực này, đồng thời phải có đủ nguồn lực thực hiện, đặc biệt là nguồn nhân lực để đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ chuyển đổi số.
3. Định hướng hoàn thiện thiết chế về quản lý đăng ký trực tuyến và thông tin dữ liệu về biện pháp bảo đảm
Thiết chế quản lý đăng ký trực tuyến và thông tin dữ liệu về biện pháp bảo đảm có vai trò rất quan trọng trong công tác quản lý nhà nước về đăng ký biện pháp bảo đảm và tổ chức hoạt động đăng ký biện pháp bảo đảm trực tuyến. Việc quản lý, vận hành hệ thống đăng ký biện pháp bảo đảm trực tuyến hiện nay đã đạt được những thành tựu nhất định, tuy nhiên cũng tồn tại một số hạn chế, bất cập. Hoàn thiện thiết chế quản lý đăng ký trực tuyến và thông tin dữ liệu về đăng ký biện pháp bảo đảm hiện nay là nhiệm vụ quan trọng và cần thiết, giúp cho việc xây dựng, quản lý, vận hành hệ thống đăng ký trực tuyến hoạt động hiệu quả, đáp ứng yêu cầu công tác quản lý nhà nước, phục vụ tốt nhất nhu cầu của người dân, doanh nghiệp trong hoạt động đăng ký biện pháp bảo đảm. Do vậy, cần tiếp tục hoàn thiện một số vấn đề cơ bản sau:
Một là, tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, đăng ký biện pháp bảo đảm nhằm xây dựng, sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách, pháp luật trong lĩnh vực này phù hợp với yêu cầu chuyển đổi số, trong đó chú trọng việc nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế pháp lý về đăng ký biện pháp bảo đảm và khai thác dữ liệu về biện pháp bảo đảm trên nền tảng số thông qua việc nghiên cứu, đề xuất xây dựng Luật Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
Hai là, kiện toàn tổ chức, bộ máy và nâng cao năng lực quản lý đăng ký trực tuyến và thông tin dữ liệu về đăng ký biện pháp bảo đảm là yếu tố then chốt đáp ứng yêu cầu công tác quản lý nhà nước, phục vụ tốt nhất nhu cầu của người dân, doanh nghiệp trong hoạt động đăng ký biện pháp bảo đảm.
Ba là, ưu tiên phân bổ nguồn lực đầu tư và nâng cao năng lực đội ngũ công chức thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng, phù hợp với đặc thù lĩnh vực đăng ký biện pháp bảo đảm.
Bốn là, đầu tư, nâng cấp hạ tầng kỹ thuật hệ thống đăng ký biện pháp bảo đảm trực tuyến bảo đảm cho hệ thống đăng ký trực tuyến hoạt động ổn định, thông suốt, an toàn, hiệu quả. Đặc biệt là, đầu tư xây dựng hệ thống dự phòng cho hệ thống đăng ký biện pháp bảo đảm trực tuyến để bảo đảm tính liên tục, thông suốt, an toàn trong quá trình hoạt động đăng ký, cung cấp thông tin trực tuyến.
Năm là, tiếp tục nghiên cứu, thực hiện các giải pháp chuyển đổi số trong lĩnh vực đăng ký biện pháp bảo đảm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ chuyển đổi số hiện nay.
Nguyễn Công Hùng
Nguyễn Thị Hoa
Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm, Bộ Tư pháp
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 2 (Số 387), tháng 8/2023)