Xử lý vi phạm hành chính
 
​Ngày 13/11/2020, Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2022. Tuy nhiên, việc xác định văn bản quy phạm pháp luật để áp dụng khi xử lý các hành vi vi phạm hành chính xảy ra trước ngày 01/01/2022 còn gây lúng túng cho cơ quan, người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành ...
 
​Nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trên địa bàn tỉnh; thực hiện các giải pháp phù hợp nhằm đảm bảo pháp luật về xử lý vi phạm hành chính được thực thi nghiêm túc, hiệu quả, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, ngày 03/02/2023, UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 386/KH-UBND về việc triển khai thực hiện các công tác quản lý thi ...
 
​Ngày 27/01/2023, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã ban hành Thông tư số 07/2023/TT-BQP hướng dẫn Nghị định 120/2013/NĐ-CP và Nghị định 37/2022/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quốc phòng, cơ yếu; quản lý bảo vệ biên giới quốc gia; trên các vùng biển, đảo và thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt NamTrong các nội dung cơ bản có hướng dẫn về cách xác định "Lý ...
Ngày 03/2/2023, Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương đã ban hành Kế hoạch số 386/KH-UBND Triển khai thực hiện công tác quản lý thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trên địa bàn tỉnh Bình Dương năm 2023.
​Ngày 16/01/2023, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 01/2023/TT-BTP quy định chế độ báo cáo công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Theo đó, Thông tư gồm 08 điều với nội dung cụ thể như sau:1. Về phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng (Điều 1)Về phạm vi điều chỉnh, Thông tư quy định chi tiết về chế độ báo cáo công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, ...
 
​Ngày 13/11/2020, Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2022. Tuy nhiên, việc xác định văn bản quy phạm pháp luật để áp dụng khi xử lý các hành vi vi phạm hành chính xảy ra trước ngày 01/01/2022 còn gây lúng túng cho cơ quan, người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành ...
 
​Ngày 18/01/2022, Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương ban hành Báo cáo số 11/BC-UBND về công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính năm 2021 trên địa bàn tỉnh Bình Dương. Theo đó, từ ngày 15/12/2020 đến ngày 14/12/2021, tổng số vụ vi phạm hành chính bị phát hiện trên địa bàn tỉnh là 19.529 vụ, diễn ra trên nhiều lĩnh vực, trong đó phổ biến nhất là các lĩnh vực: ...
 
            Đặt vấn đề:           Trước thời điểm Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 có hiệu lực (Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2013, trừ các quy định liên quan đến việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính do Tòa án nhân dân xem xét, quyết định thì có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 ...
 
           Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2020 được Quốc hội thông qua ngày 13 tháng 11 năm 2020 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2022. Thực hiện Kế hoạch số 962/KH-UBND ngày 11 tháng 3 năm 2021 của UBND tỉnh về triển khai thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính trên địa bàn ...
 
​Thực hiện Kế hoạch số 6504/KH-UBND ngày 31/12/2020 của UBND tỉnh về thực hiện công tác quản lý thi hành pháp luật về XLVPHC trên địa bàn tỉnh Bình Dương năm 2021. Theo đó, tại điểm c khoản 1 Mục III của Kế hoạch giao Sở Tư pháp "Tổng hợp, xây dựng báo cáo công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trên địa bàn tỉnh, tham mưu UBND tỉnh báo cáo Bộ Tư pháp theo quy ...
 
 
  
Phân loại
  
  
  
  
Tóm tắt
  
  
  
  
Nội dung
  
  
Việc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chínhThông tinTinViệc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
2/20/2023 11:00 AMYesĐã ban hành

Ngày 13/11/2020, Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2022. Tuy nhiên, việc xác định văn bản quy phạm pháp luật để áp dụng khi xử lý các hành vi vi phạm hành chính xảy ra trước ngày 01/01/2022 còn gây lúng túng cho cơ quan, người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính.

 

          Điều 7 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP ngày 23/12/2021 quy định: "Việc lựa chọn áp dụng văn bản quy phạm pháp luật để xử phạt đối với hành vi vi phạm hành chính được thực hiện theo quy định tại Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật".

Căn cứ khoản 1 Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) quy định: "Văn bản quy phạm pháp luật được áp
dụng đối với hành vi xảy ra tại thời điểm mà văn bản đó đang có hiệu lực".

Theo đó, việc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật để xử lý các hành vi vi phạm hành chính trong giai đoạn chuyển giao giữa Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2020 xác định như sau:

- Đối với các hành vi phạm hành chính đã được phát hiện hoặc được lập biên bản vi phạm hành chính trước ngày 01/01/2022 (ngày có hiệu lực của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính) mà hiện nay đang xem xét, giải quyết thì việc xác định thẩm quyền xử phạt, thủ tục xử phạt và biểu mẫu áp dụng theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012.

- Đối với các hành vi phạm hành chính xảy ra trước ngày 01/01/2022 mà sau đó mới bị phát hiện, lập biên bản vi phạm hành chính và xem xét, giải quyết thì việc xác định thẩm quyền xử phạt, thủ tục xử phạt và biểu mẫu áp dụng theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012.

- Đối với các quyết định xử phạt vi phạm hành chính đã được ban hành trước ngày 01/01/2022 nhưng chưa thi hành xong thì việc xem xét hoãn, giảm, miễn thi hành quyết định xử phạt, cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt áp dụng theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012.​

FalsePhòng HCTP&QLXLVPHC
Bình Dương: ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện  công tác quản lý thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trên địa bàn tỉnh Bình Dương năm 2023Thông tinTinBình Dương: ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện  công tác quản lý thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trên địa bàn tỉnh Bình Dương năm 2023/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
2/20/2023 11:00 AMYesĐã ban hành

Nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trên địa bàn tỉnh; thực hiện các giải pháp phù hợp nhằm đảm bảo pháp luật về xử lý vi phạm hành chính được thực thi nghiêm túc, hiệu quả, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, ngày 03/02/2023, UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 386/KH-UBND về việc triển khai thực hiện các công tác quản lý thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trê địa bàn tỉnh Bình Dương năm 2023.

Theo đó, UBND tỉnh yêu cầu các Sở, Ngành, UBND cấp huyện, UBND cấp xã cần triển khai đồng bộ, đúng quy định pháp luật và có hiệu quả các nhiệm vụ theo kế hoạch, đảm bảo sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan trong quá trình triển khai thực hiện; Xác định cụ thể nội dung công việc, thời hạn hoàn thành và trách nhiệm của các cơ quan trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao.

Nội dung của Kế  hoạch: Trong năm 2023, các cơ quan, đơn vị trên toàn tỉnh tập trung triển khai các nội dung sau: Ban hành các văn bản chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện quản lý nhà nước trong thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; đẩy mạnh công tác phổ biến pháp luật, hướng dẫn, tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ về pháp luật xử lý vi phạm hành chính; kiểm tra công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; phối hợp thanh tra công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; hoàn thiện chính sách, pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; thống kê về xử lý vi phạm hành chính; báo cáo công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và thực hiện các nhiệm vụ khác phát sinh trong quá trình triển khai thực hiện.

Đồng thời, UBND tỉnh cũng yêu cầu các Sở, Ngành, UBND cấp huyện; UBND cấp xã: Xây dựng Kế hoạch công tác quản lý thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính tại ngành, địa phương mình để tổ chức triển khai thực hiện đầy đủ, nghiêm túc, có hiệu quả các nhiệm vụ được giao tại Kế hoạch này và gửi về Sở Tư pháp trước ngày 17/02/2023 để theo dõi, tổng hợp, báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh; Bố trí nhân sự và các điều kiện cần thiết bảo đảm thực hiện công tác tổ chức thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và các nhiệm vụ quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính tại ngành, địa phương; Phối hợp chặt chẽ với Sở Tư pháp và các đơn vị liên quan trong việc triển khai thực hiện Kế hoạch; cử cán bộ tham gia Đoàn kiểm tra, thanh tra liên ngành đầy đủ, đúng thành phần theo đề nghị của cơ quan, người có thẩm quyền.​

386-KH.signed.pdf

FalsePhòng HCTP&QLXLVPHC
Hướng dẫn mới về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quốc phòng, cơ yếu; quản lý bảo vệ biên giới quốc gia; trên các vùng biển, đảo và thềm lục địaThông tinTinHướng dẫn mới về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quốc phòng, cơ yếu; quản lý bảo vệ biên giới quốc gia; trên các vùng biển, đảo và thềm lục địa/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
2/15/2023 3:00 PMNoĐã ban hành

Ngày 27/01/2023, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã ban hành Thông tư số 07/2023/TT-BQP hướng dẫn Nghị định 120/2013/NĐ-CP và Nghị định 37/2022/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quốc phòng, cơ yếu; quản lý bảo vệ biên giới quốc gia; trên các vùng biển, đảo và thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Trong các nội dung cơ bản có hướng dẫn về cách xác định "Lý do chính đáng" được quy định tại Điều 6, Điều 7, Điều 11, Điều 12 Nghị định 120/2013/NĐ-CP , được sửa đổi, bổ sung tại khoản 8, khoản 9, khoản 12, khoản 13 Điều 1 Nghị định 37/2022/NĐ-CP .Theo đó, được xem là có "lý do chính đáng" khi thuộc một trong các trường hợp sau:

- Người phải thực hiện kiểm tra hoặc khám sức khỏe thực hiện NVQS; khám sức khỏe tuyển chọn sĩ quan dự bị; chấp hành lệnh gọi nhập ngũ; gọi đi đào tạo sĩ quan dự bị; gọi tập trung huấn luyện, diễn tập, kiểm tra sẵn sàng động viên, sẵn sàng chiến đấu nhưng bị ốm đau, tai nạn hoặc trên đường đi bị ốm đau, tai nạn phải điều trị tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.

- Thân nhân: Cha đẻ, mẹ đẻ; cha vợ, mẹ vợ hoặc cha chồng, mẹ chồng; cha nuôi, mẹ nuôi; người nuôi dưỡng hợp pháp; vợ hoặc chồng; con đẻ, con nuôi hợp pháp bị ốm đau, tai nạn nặng đang điều trị tại cơ sở KBCB.

- Thân nhân quy định nêu trên chết nhưng chưa tổ chức tang lễ hoặc tang lễ chưa kết thúc.

Ngoài ra hành vi "gian dối làm sai lệch kết quả phân loại sức khỏe của mình" quy định tại khoản 8 Điều 1 Nghị định số 37/2022/NĐ-CP là một trong các trường hợp sau:

- Sử dụng các biện pháp cố tình làm thay đổi tình trạng sức khỏe của bản thân ngay trước hoặc trong quá trình khám sức khỏe nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ quân sự và đã được cơ quan có thẩm quyền kết luận đó là hành vi gian dối, như: Sử dụng các loại thuốc, chất kích thích, chất cấm; tự gây thương tích, tổn hại sức khỏe của bản thân, hoặc biện pháp khác làm thay đổi tình trạng sức khỏe của bản thân.

- Sửa chữa kết quả phân loại sức khỏe của bản thân trong thực hiện kiểm tra hoặc khám sức khỏe nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ quân sự.

- Nhờ người khác kiểm tra hoặc khám sức khỏe thay.

Thông tư 07/2023/TT-BQP có hiệu lực từ ngày 14/3/2023 và thay thế Thông tư 95/2014/TT-BQP./.

FalsePhòng HCTP&QLXLVPHC
Triển khai thực hiện công tác quản lý thi hành pháp luật  về xử lý vi phạm hành chính trên địa bàn tỉnh Bình Dương năm 2023Văn bản điều hànhTinTriển khai thực hiện công tác quản lý thi hành pháp luật  về xử lý vi phạm hành chính trên địa bàn tỉnh Bình Dương năm 2023/XLVPHCTDTHPL/PublishingImages/2023-02/386-KH_Key_14022023084128.signed_Key_14022023084128.pdf
Ngày 03/2/2023, Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương đã ban hành Kế hoạch số 386/KH-UBND Triển khai thực hiện công tác quản lý thi hành pháp luật  về xử lý vi phạm hành chính trên địa bàn tỉnh Bình Dương năm 2023.
2/14/2023 9:00 AMNoĐã ban hànhFalsePhòng HCTP&QLXLVPHC
Quy định về chế độ báo cáo công tác thi hành pháp luật  về xử lý vi phạm hành chínhThông tinTinQuy định về chế độ báo cáo công tác thi hành pháp luật  về xử lý vi phạm hành chính/XLVPHCTDTHPL/PublishingImages/2023-02/Dang WEB Thong tu 01_Key_06022023135742.docx
2/6/2023 2:00 PMNoĐã ban hành

Ngày 16/01/2023, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 01/2023/TT-BTP quy định chế độ báo cáo công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Theo đó, Thông tư gồm 08 điều với nội dung cụ thể như sau:

1. Về phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng (Điều 1)

Về phạm vi điều chỉnh, Thông tư quy định chi tiết về chế độ báo cáo công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, bao gồm: trách nhiệm báo cáo; kỳ báo cáo, thời gian chốt số liệu và thời hạn gửi báo cáo; hình thức và phương thức gửi báo cáo; mẫu đề cương báo cáo và các biểu mẫu sử dụng để tổng hợp số liệu kèm theo báo cáo và việc chỉnh lý, bổ sung nội dung, số liệu trong báo cáo.
Chế độ báo cáo công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính được áp dụng đối với các Bộ, cơ quan ngang Bộ; Bảo hiểm xã hội Việt Nam; Toà án nhân dân tối cao; Kiểm toán Nhà nước; Ủy ban nhân dân các cấp; các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các tổ chức thuộc cơ quan Trung ương được tổ chức theo ngành dọc, gồm: Toà án nhân dân; Kiểm toán Nhà nước; Công an nhân dân; Bộ đội biên phòng; Cảnh sát biển; Hải quan; Kiểm ngư; Thuế; Quản lý thị trường; Cơ quan thi hành án dân sự; Kho bạc Nhà nước; Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước; tổ chức Thống kê tập trung; cơ quan Bảo hiểm xã hội và các tổ chức khác thuộc cơ quan Trung ương được tổ chức theo ngành dọc theo quy định của pháp luật.

2. Về trách nhiệm báo cáo (Điều 2)

Thông tư quy định cơ quan xây dựng báo cáo có trách nhiệm báo cáo đầy đủ, trung thực, chính xác các nội dung trong mẫu đề cương báo cáo và các biểu mẫu số liệu báo cáo và bảo đảm thời gian chốt số liệu, thời hạn gửi báo cáo.

Đồng thời, Thông tư cũng quy định trách nhiệm tổng hợp, báo cáo của các tổ chức thuộc cơ quan Trung ương được tổ chức theo ngành dọc đóng trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ được tổ chức theo ngành dọc đóng trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp.

 3. Về chế độ báo cáo, thời gian chốt số liệu báo cáo định kỳ và thời hạn gửi báo cáo định kỳ (Điều 3)

- Về chế độ báo cáo: Báo cáo công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính bao gồm:

+ Báo cáo định kỳ;

+ Báo cáo chuyên đề;

+  Báo cáo đột xuất.

- Về thời gian chốt số liệu báo cáo định kỳ, thời hạn gửi báo cáo định kỳ:

Thời gian chốt số liệu báo cáo và thời hạn gửi báo cáo về Bộ Tư pháp được thực hiện theo quy định của Chính phủ về chế độ báo cáo của cơ quan hành chính nhà nước (Nghị định số 09/2019/NĐ-CP). Đồng thời, Thông tư quy định cụ thể thời hạn gửi báo cáo của các bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các cấp về Bộ Tư pháp để tổng hợp báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.  

4. Về hình thức báo cáo và phương thức gửi, nhận báo cáo (Điều 4)

- Về hình thức báo cáo: Cùng với việc sử dụng hình thức báo cáo truyền thống bằng văn bản giấy, Thông tư còn quy định sử dụng hình thức báo cáo bằng văn bản điện tử có chữ ký số cho văn bản điện tử của cơ quan nhà nước.

- Về phương thức gửi, nhận báo cáo:

+ Gửi trực tiếp;

+ Gửi qua dịch vụ bưu chính;

+ Gửi qua fax;

+ Gửi qua hệ thống thư điện tử dưới dạng tệp ảnh (định dạng PDF) hoặc văn bản điện tử có ký số;

+ Gửi qua Hệ thống văn bản và Điều hành;

+ Phương thức khác theo quy định của pháp luật.

5. Về mẫu đề cương báo cáo và mẫu số liệu báo cáo (Điều 5)

6. Về việc chỉnh lý, bổ sung báo cáo (Điều 6)

Điều 6 Thông tư quy định về việc chỉnh lý, bổ sung báo cáo trong trường hợp có sai sót. Theo đó, trường hợp phải chỉnh lý, bổ sung nội dung, số liệu trong báo cáo, cơ quan lập báo cáo có trách nhiệm gửi báo cáo đã được chỉnh lý, bổ sung, kèm theo văn bản giải trình rõ về việc chỉnh lý, bổ sung và phải có chữ ký xác nhận, đóng dấu. Trường hợp báo cáo bị tẩy xóa, sửa chữa làm sai lệch nội dung, số liệu trong báo cáo và các biểu mẫu số liệu kèm theo thì báo cáo, biểu mẫu đó không có giá trị báo cáo.

7. Về hiệu lực thi hành

Thông tư bãi bỏ Điều 1, khoản 1 Điều 2, khoản 1 Điều 3, Điều 4, khoản 1 Điều 5, Điều 6, Điều 7, Điều 8 Thông tư số 16/2018/TT-BTP ngày 14 tháng 12 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chế độ báo cáo trong quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và theo dõi tình hình thi hành pháp luật. Đồng thời, ban hành kèm theo Thông tư là Phụ lục mẫu đề cương báo cáo và các mẫu sử dụng để tổng hợp số liệu kèm theo báo cáo công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 03/3/2023.

FalsePhòng HCTP&QLXLVPHC
Việc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chínhThông tinTinViệc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
2/6/2023 2:00 PMNoĐã ban hành

Ngày 13/11/2020, Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2022. Tuy nhiên, việc xác định văn bản quy phạm pháp luật để áp dụng khi xử lý các hành vi vi phạm hành chính xảy ra trước ngày 01/01/2022 còn gây lúng túng cho cơ quan, người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính.

 

          Điều 7 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP ngày 23/12/2021 quy định: "Việc lựa chọn áp dụng văn bản quy phạm pháp luật để xử phạt đối với hành vi vi phạm hành chính được thực hiện theo quy định tại Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật".

Căn cứ khoản 1 Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) quy định: "Văn bản quy phạm pháp luật được áp
dụng đối với hành vi xảy ra tại thời điểm mà văn bản đó đang có hiệu lực".

Theo đó, việc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật để xử lý các hành vi vi phạm hành chính trong giai đoạn chuyển giao giữa Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2020 xác định như sau:

- Đối với các hành vi phạm hành chính đã được phát hiện hoặc được lập biên bản vi phạm hành chính trước ngày 01/01/2022 (ngày có hiệu lực của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính) mà hiện nay đang xem xét, giải quyết thì việc xác định thẩm quyền xử phạt, thủ tục xử phạt và biểu mẫu áp dụng theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012.

- Đối với các hành vi phạm hành chính xảy ra trước ngày 01/01/2022 mà sau đó mới bị phát hiện, lập biên bản vi phạm hành chính và xem xét, giải quyết thì việc xác định thẩm quyền xử phạt, thủ tục xử phạt và biểu mẫu áp dụng theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012.

- Đối với các quyết định xử phạt vi phạm hành chính đã được ban hành trước ngày 01/01/2022 nhưng chưa thi hành xong thì việc xem xét hoãn, giảm, miễn thi hành quyết định xử phạt, cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt áp dụng theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012.​

FalsePhòng HCTP&QLXLVPHC
Kết quả xử lý vi phạm hành chính năm 2021 trên địa bàn tỉnh Bình DươngThông tinTinKết quả xử lý vi phạm hành chính năm 2021 trên địa bàn tỉnh Bình Dương/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
1/27/2022 3:00 PMNoĐã ban hành

Ngày 18/01/2022, Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương ban hành Báo cáo số 11/BC-UBND về công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính năm 2021 trên địa bàn tỉnh Bình Dương. 

Theo đó, từ ngày 15/12/2020 đến ngày 14/12/2021, tổng số vụ vi phạm hành chính bị phát hiện trên địa bàn tỉnh là 19.529 vụ, diễn ra trên nhiều lĩnh vực, trong đó phổ biến nhất là các lĩnh vực: đất đai, môi trường; y tế; xây dựng; lao động;… 

Nguyên nhân chủ yếu là do tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh ngày càng tăng cao, việc thu hút doanh nghiệp đến đầu tư sản xuất kinh doanh và dân nhập cư từ nhiều nơi đến địa bàn tỉnh để làm ăn, sinh sống đã phát sinh các vấn đề về đất đai, xây dựng, …Mặc dù, nhận thức trách nhiệm về công tác xây dựng, đất đai, bảo vệ môi trường của cộng đồng, doanh nghiệp thời gian qua đã được nâng lên nhưng chưa chuyển biến thành hành vi, thói quen trong cuộc sống hàng ngày. Đặc biệt, trong năm 2021, Bình Dương là địa phương bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh Covid-19, nhiều doanh nghiệp phải hoạt động cầm chừng, một số đứng trước nguy cơ giải thể, thậm chí ngưng hoạt động, kéo theo đó là ý thức chấp hành của người dân trong công tác phòng, chống dịch bệnh chưa cao. Trước thực trạng trên, đối với công tác quản lý nhà nước về xử lý vi phạm hành chính, Bình Dương phải vừa đảm bảo quản lý chặt chẽ hiệu quả, đúng quy định pháp luật; vừa tạo điều kiện thông thoáng cho doanh nghiệp tiếp tục duy trì hoạt động, phát triển. Vì vậy, dẫn đến số vụ vi phạm hành chính tại địa phương phát sinh nhiều trong thời gian này. 

Tình hình xử phạt vi phạm hành chính: 

- Tổng số vụ bị xử phạt vi phạm hành chính: 19.524 vụ; 

- Tổng số vụ chuyển truy cứu trách nhiệm hình sự: 00 vụ; 

- Tổng số đối tượng bị xử phạt: 19.854 đối tượng; 

- Tổng số quyết định xử phạt vi phạm hành chính đã được ban hành: 19.646 quyết định. Trong đó: Số quyết định đã thi hành là: 17.492 quyết định. 

Tình hình áp dụng các biện pháp xử lý hành chính: 

- Tổng số đối tượng bị lập hồ sơ đề nghị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính: 1.278 đối tượng. 

- Tổng số đối tượng bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính: 1.075 đối tượng./.

 

FalseNguyễn Thị Linh
XỬ LÝ CÁC QUYẾT ĐỊNH TRONG XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH ĐƯỢC BAN HÀNH TRƯỚC THỜI ĐIỂM LUẬT XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH CÓ HIỆU LỰC NHƯNG CÓ SAI SÓTThông tinTinXỬ LÝ CÁC QUYẾT ĐỊNH TRONG XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH ĐƯỢC BAN HÀNH TRƯỚC THỜI ĐIỂM LUẬT XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH CÓ HIỆU LỰC NHƯNG CÓ SAI SÓT/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
1/12/2022 3:00 PMNoĐã ban hành

            Đặt vấn đề:

          Trước thời điểm Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 có hiệu lực (Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2013, trừ các quy định liên quan đến việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính do Tòa án nhân dân xem xét, quyết định thì có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2014), pháp luật về xử lý vi phạm hành chính không có quy định về việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ các quyết định trong xử phạt vi phạm hành chính ban hành có sai sót. Trên thực tế, có nhiều vụ việc vi phạm hành chính diễn ra trước thời điểm Luật Xử lý vi phạm hành chính có hiệu lực, đã được người có thẩm quyền xử phạt ra các quyết định để xử lý (Quyết định xử phạt vi phạm hành chính, Quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra, Quyết định cưỡng chế thi hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính…) nhưng các quyết định này có sai sót, dẫn đến việc không thể thi hành. Đối với những trường hợp này, người có thẩm quyền xử phạt rất lúng túng trong cách xử lý, khiến cho nhiều vụ việc không được giải quyết dứt điểm, làm ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. 

        Bài viết thể hiện cách nhìn nhận, đánh giá của tác giả về vấn đề này. Bên cạnh việc đưa ra quan điểm xử lý trước mắt, tác giả cũng đề xuất việc sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật để góp phần hoàn thiện hơn nữa các quy định pháp luật có liên quan đến việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ các quyết định trong xử phạt vi phạm hành chính ban hành có sai sót.

          Tình huống thực tế:

          Năm 2012, ông Nguyễn Văn A thực hiện hành vi xây dựng nhà ở gia đình không có giấy phép xây dựng trên đất lấn chiếm (vi phạm quy định tại điểm b khoản 2 Điều 11 Nghị định số 23/2009/NĐ-CP ngày 27 tháng 02 năm 2009 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động xây dựng; kinh doanh bất động sản; khai thác, sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng; quản lý công trình hạ tầng kỹ thuật; quản lý phát triển nhà và công sở), đã bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính từ năm 2012. Quyết định xử phạt này có sai sót về thẩm quyền ban hành (vì hành vi vi phạm hành chính theo quy định thuộc thẩm quyền xử phạt của Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận) và vẫn chưa được thi hành. Đến nay, khi tiếp tục giải quyết vụ việc để bảo đảm hiệu lực, hiệu quả công tác xử lý vi phạm hành chính, các cơ quan chức năng ở địa phương gặp một số vướng mắc trong áp dụng các quy định pháp luật liên quan về xử lý vi phạm hành chính:

          Một là, có tiếp tục xử lý vụ việc không?

          Hai là, có được sửa đổi, bổ sung hay hủy bỏ, ban hành quyết định mới không?

          Ba là, cơ sở pháp lý nào để thực hiện việc sửa đổi, bổ sung hay hủy bỏ, ban hành quyết định mới? Bởi vì, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2008) và Nghị định số 128/2008/NĐ-CP ngày 16 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2008 không quy định cụ thể việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ các quyết định trong xử phạt vi phạm hành chính ban hành có sai sót. Trong khi đó, Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) không có quy định hiệu lực trở về trước (hồi tố) đối với các trường hợp sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ các quyết định trong xử phạt vi phạm hành chính có sai sót đã được ban hành trước thời điểm Luật có hiệu lực thi hành.

          Qua theo dõi công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, tác giả thấy rằng, cơ quan, người có thẩm quyền xử phạt thường ban hành quyết định thu hồi quyết định có sai sót và sau đó, ban hành quyết định mới đối với hành vi vi phạm hành chính.

          Tuy nhiên, theo quan điểm của tác giả thì việc thu hồi các quyết định trong xử phạt vi phạm hành chính có sai sót nói chung và Quyết định xử phạt vi phạm hành chính nói riêng trong vụ việc được nêu là không có căn cứ, vì không có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định vấn đề này.

          Để giải quyết vụ việc nêu trên cũng như các vụ việc khác tương tự, theo tác giả, cần xác định quan điểm xử lý như sau:

          Thứ nhất, về việc tiếp tục xử lý đối với hành vi vi phạm hành chính:

          Khoản 1 Điều 10 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính quy định: "Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính là một năm, kể từ ngày vi phạm hành chính được thực hiện; đối với vi phạm hành chính trong các lĩnh vực tài chính, chứng khoán, sở hữu trí tuệ, xây dựng, môi trường, an toàn và kiểm soát bức xạ, nhà ở, đất đai, đê điều, xuất bản, xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh hoặc vi phạm hành chính là hành vi buôn lậu, sản xuất, buôn bán hàng giả thì thời hiệu là hai năm; nếu quá các thời hạn nói trên thì không xử phạt nhưng vẫn bị áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả được quy định tại các điểm a, b, c, d và đ khoản 3  Điều 12 của Pháp lệnh này".
          Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 56 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính quy định: Quá thời hạn ra quyết định xử phạt, người có thẩm quyền xử phạt không được ra quyết định xử phạt nhưng vẫn có thể áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 3 Điều 12 của Pháp lệnh.

          Ngoài ra, Điều 69 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính cũng quy định: "Thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính là một năm, kể từ ngày ra quyết định xử phạt; quá thời hạn này mà quyết định đó không được thi hành thì không thi hành quyết định xử phạt nữa nhưng vẫn áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả được ghi trong quyết định".

          Căn cứ các quy định pháp luật nêu trên, có thể khẳng định, mặc dù vụ việc vi phạm hành chính đã diễn ra từ năm 2012 nhưng cơ quan, người có thẩm quyền xử phạt vẫn cần phải tiếp tục xử lý bằng cách áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả để khắc phục triệt để hậu quả do hành vi vi phạm hành chính gây ra, khôi phục trật tự quản lý hành chính nhà nước đã bị xâm hại.

          Thứ hai, về hướng xử lý đối với các quyết định trong xử phạt vi phạm hành chính có sai sót:

          Khoản 2 Điều 5 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính quy định: "Thủ trưởng cơ quan nhà nước có trách nhiệm thường xuyên kiểm tra việc xử lý vi phạm hành chính của người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính thuộc phạm vi quản lý của mình, kịp thời xử lý vi phạm pháp luật và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật".

          Qua nghiên cứu quy định nêu trên của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính, có thể thấy rằng, quy định tại khoản 3 Điều 18 của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) chính là sự kế thừa và quy định một cách cụ thể hơn quy định tại khoản 2 Điều 5 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính. Cụ thể, khoản 3 Điều 18 của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) quy định: "Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp, thủ trưởng cơ quan, đơn vị của người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính có trách nhiệm phát hiện quyết định về xử lý vi phạm hành chính do mình hoặc cấp dưới ban hành có sai sót và kịp thời đính chính, sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ, ban hành quyết định mới theo thẩm quyền".

          Như vậy, với quy định về việc phải "kịp thời xử lý vi phạm pháp luật… trong xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật" thì thực chất, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính cũng đã đề cập đến việc xử lý đối với những quyết định trong xử phạt vi phạm hành chính có sai sót, chỉ khác một điều, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính chưa quy định một cách cụ thể hướng "xử lý vi phạm pháp luật" (các quyết định trong xử phạt vi phạm hành chính có sai sót) là gì, cách thức thực hiện ra sao. Chỉ đến khi Luật Xử lý vi phạm hành chính ra đời, thì nhà làm luật mới đưa ra hướng xử lý cụ thể đối với các quyết định trong xử phạt vi phạm hành chính có sai sót, đó là: Đính chính, sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ, ban hành quyết định mới.
Đi đến tận cùng của vấn đề thì thấy rằng, mặc dù không có quy định cụ thể, trực tiếp về việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ các quyết định trong xử phạt vi phạm hành chính có sai sót nhưng khoản 2 Điều 5 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính cũng có quy định viện dẫn việc áp dụng "theo quy định của pháp luật". Vậy theo quy định pháp luật ở đây là gì, nằm ở những văn bản quy phạm pháp luật nào? Chúng ta cùng tiếp tục tìm hiểu các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan có hiệu lực tại thời điểm Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính có hiệu lực để xem có quy định nào về việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ các quyết định trong xử phạt vi phạm hành chính có sai sót hay không.
           Điểm đ khoản 2 Điều 13 Luật Khiếu nại năm 2011 quy định một trong những nghĩa vụ của người bị khiếu nại là phải "sửa đổi hoặc hủy bỏ quyết định hành chính, chấm dứt hành vi hành chính bị khiếu nại".

          Điểm h khoản 2 Điều 31 Luật Khiếu nại quy định: Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu phải có nội dung liên quan đến "sửa đổi hoặc hủy bỏ quyết định hành chính, chấm dứt hành vi hành chính bị khiếu nại". Điểm h khoản 2 Điều 40 Luật Khiếu nại cũng quy định về nội dung của quyết định giải quyết khiếu nại lần hai, theo đó, "…trường hợp khiếu nại là đúng hoặc đúng một phần thì yêu cầu người có quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại sửa đổi, hủy bỏ một phần hay toàn bộ quyết định hành chính, chấm dứt hành vi hành chính bị khiếu nại…".
          Điểm a khoản 4 Điều 37 Luật Tố cáo năm 2011 quy định một trong những biện pháp bảo vệ người tố cáo tại nơi công tác, làm việc là "hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định xử lý kỷ luật hoặc quyết định khác xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người tố cáo". Điểm a khoản 4 Điều 38 Luật Tố cáo cũng quy định một trong những biện pháp bảo vệ người tố cáo tại nơi cư trú là "hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định hành chính, hành vi hành chính xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người tố cáo".

          Khoản 3 Điều 51 Luật Tố tụng hành chính năm 2010 quy định một trong những quyền, nghĩa vụ của người bị kiện, đó là: "Sửa đổi hoặc hủy bỏ quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri bị khởi kiện; dừng, khắc phục hành vi hành chính bị khởi kiện".

          Từ các quy định pháp luật nêu trên, có thể thấy, khoản 2 Điều 5 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính mặc dù không đề cập trực tiếp đến việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ các quyết định trong xử phạt vi phạm hành chính có sai sót nhưng cũng đã có quy định về việc người có thẩm quyền phải kịp thời xử lý vi phạm pháp luật trong xử lý vi phạm hành chính. Còn việc xử lý như thế nào thì khoản 2 Điều 5 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính quy định theo hướng viện dẫn việc áp dụng "theo quy định của pháp luật". Trong các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan như Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật Tố tụng hành chính đều có quy định về việc người có thẩm quyền ban hành quyết định hành chính nói chung và các quyết định trong xử phạt vi phạm hành chính nói riêng phải/được sửa đổi hoặc hủy bỏ quyết định có sai sót khi các quyết định này bị khiếu nại, khởi kiện.

           Do vậy, đối chiếu với vụ việc được nêu ví dụ, tác giả cho rằng, cơ quan, người có thẩm quyền xử phạt vẫn có thể tiến hành việc hủy bỏ Quyết định xử phạt vi phạm hành chính có sai sót về thẩm quyền ban hành; tiếp đó, cần chuyển vụ việc đến người có thẩm quyền để ban hành Quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra nhằm xử lý triệt để vụ việc vi phạm hành chính.

          Đề xuất, kiến nghị:

          Về lâu dài, để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc nêu trên, thiết nghĩ, việc xử lý các quyết định trong xử phạt vi phạm hành chính được ban hành trước thời điểm Luật Xử lý vi phạm hành chính có hiệu lực nhưng có sai sót cần được quy định cụ thể trong Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính. Tại khoản 3 Điều 18 Luật Xử lý vi phạm hành chính (sửa đổi, bổ sung năm 2020), Quốc hội cũng giao Chính phủ quy định chi tiết vấn đề này.
Hiện nay, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 118/2021/NĐ-CP ngày 23 tháng 12 năm 2021 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính, trong đó quy định cụ thể các nội dung liên quan đến sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, ban hành quyết định mới trong xử phạt vi phạm hành chính như: Các trường hợp phải sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, ban hành quyết định mới; thủ tục sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, ban hành quyết định mới; thời hạn thực hiện việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, ban hành quyết định mới; hiệu lực, thời hạn, thời hiệu thi hành quyết định sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, quyết định mới ban hành trong xử phạt vi phạm hành chính… Tuy nhiên, chưa có quy định hướng dẫn việc xử lý đối với các quyết định trong xử phạt vi phạm hành chính được ban hành trước thời điểm Luật Xử lý vi phạm hành chính có hiệu lực nhưng có sai sót.

          Do vậy, theo tác giả, cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung vào Nghị định số 118/2021/NĐ-CP quy định về việc áp dụng một số quy định liên quan đến sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, ban hành quyết định mới trong xử phạt vi phạm hành chính tại Nghị định số 118/2021/NĐ-CP để xử lý đối với các quyết định trong xử phạt vi phạm hành chính được ban hành trước thời điểm Luật Xử lý vi phạm hành chính có hiệu lực nhưng có sai sót. Quy định này là "cần thiết để bảo đảm lợi ích chung của xã hội" theo quy định của khoản 1 Điều 152 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020). Quy định này không làm phát sinh "trách nhiệm pháp lý mới" đối với hành vi, cũng không "quy định trách nhiệm pháp lý nặng hơn" đối với hành vi mà chỉ hướng dẫn cụ thể hơn hình thức và cách thức thực hiện việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, ban hành quyết định mới trong xử phạt vi phạm hành chính đối với các quyết định trong xử phạt vi phạm hành chính đã được ban hành trước thời điểm Luật Xử lý vi phạm hành chính có hiệu lực nhưng có sai sót, do vậy, hoàn toàn phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 152 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật./.

Nguồn: https://xlvphc.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/trao-doi-kinh-nghiem.aspx?ItemID=136​

FalseNguyễn Thị Linh
Tỉnh Bình Dương tổ chức Hội nghị quán triệt, triển khai thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính Thông tinTinTỉnh Bình Dương tổ chức Hội nghị quán triệt, triển khai thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính /Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
12/28/2021 1:00 PMNoĐã ban hành

           Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2020 được Quốc hội thông qua ngày 13 tháng 11 năm 2020 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2022. Thực hiện Kế hoạch số 962/KH-UBND ngày 11 tháng 3 năm 2021 của UBND tỉnh về triển khai thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính trên địa bàn tỉnh Bình Dương; để kịp thời triển khai các quy định mới của Luật đến cán bộ, công chức, viên chức, đặc biệt là đội ngũ CBCC làm công tác xử lý vi phạm hành chính tại địa phương.

Sáng ngày 28 tháng 12 năm 2021, Sở Tư pháp phối hợp cùng Công an tỉnh tham mưu UBND tỉnh tổ chức Hội nghị quán triệt, triển khai thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính cho các cơ quan, đơn vị cấp tỉnh và địa phương cấp huyện trên địa bàn tỉnh, dưới sự chủ trì của Ông Nguyễn Quốc Trí, Phó Giám đốc Sở Tư pháp. Hội nghị được tổ chức bằng hình thức trực tuyến tại 55 điểm cầu với gần 300 đại biểu tham dự là đại diện lãnh đạo Ban pháp chế HĐND tỉnh, đại diện lãnh đạo của các Sở, Ngành và các phòng nghiệp vụ Công an tỉnh; đối với đơn vị địa phương cấp huyện có đại diện của UBND, đại diện lãnh đạo và công chức quản lý xử lý vi phạm hành chính tại Phòng Tư pháp các huyện, thị xã, thành phố; đại diện lãnh đạo và chỉ huy các đội có chức năng xử lý vi phạm hành chính tại Công an huyện, thị xã, thành phố.

hn1.png

Ảnh: Ông Nguyễn Quốc Trí, Phó giám đốc Sở Tư pháp phát biểu khai mạc Hội nghị

         Tại Hội nghị, điểm cầu Sở Tư pháp Ông Huỳnh Quốc Anh - Trưởng phòng phòng QLXLVPHC &THPL đã truyền đạt những nội dung mới cơ bản của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2020; hướng dẫn các kỹ năng trong lập hồ sơ xử phạt vi phạm hành chính, đồng thời đã trao đổi, giải đáp các tình huống phát sinh trong thực tiễn thi hành pháp luật. 

        Cũng trong Hội nghị tại điểm cầu Công an tỉnh ông Đỗ Ngọc Ẩn -Trưởng phòng Cảnh sát điều tra tội phạm ma túy Công an tỉnh đã trình bày Chuyên đề về các biện pháp xử lý hành chính, trong đó tập trung vào biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định mới của Luật Xử lý vi phạm hành chính sửa đổi, bổ sung năm 2020 và Luật Luật phòng, chống ma túy năm 2021. Đồng thời, trao đổi những tình huống đã xảy ra trong thực tiễn khi áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm hành chính này trong thực tiễn thời gian qua.

Thông qua Hội nghị đã kịp thời cập nhật các điểm mới của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính, giúp cán bộ, công chức, viên chức làm công tác xử lý vi phạm hành chính tại các đơn vị, địa phương nắm vững, từ đó góp phần tổ chức triển khai thi hành Luật được kịp thời, toàn diện, thống nhất, hiệu quả trên địa bàn tỉnh Bình Dương thời gian tới./.

MỘT SỐ HÌNH ẢNH HỘI NGHỊ:​

hn2.png

hn3.png

hn4.png

hn5.png

FalsePhạm Công Danh
Tài liệu báo cáo công tác quản lý thi hành pháp luật về XLVPHC năm 2021Văn bản điều hànhTinTài liệu báo cáo công tác quản lý thi hành pháp luật về XLVPHC năm 2021/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
12/7/2021 5:00 PMNoĐã ban hành

​Thực hiện Kế hoạch số 6504/KH-UBND ngày 31/12/2020 của UBND tỉnh về thực hiện công tác quản lý thi hành pháp luật về XLVPHC trên địa bàn tỉnh Bình Dương năm 2021. Theo đó, tại điểm c khoản 1 Mục III của Kế hoạch giao Sở Tư pháp "Tổng hợp, xây dựng báo cáo công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trên địa bàn tỉnh, tham mưu UBND tỉnh báo cáo Bộ Tư pháp theo quy định".​ Trên cơ sở hướng dẫn tại Công văn số ​1660/STP-XLVPHC&THPL, ​​​Sở Tư pháp kính đề nghị các đơn vị, địa phương căn cứ chức năng, nhiệm vụ được giao ​phối hợp thực hiện báo cáo theo tài liệu đính kèm./.


TAI LIEU BAO CAO XLVPHC nam 2021.rar

False
Kết quả rà soát các văn bản QPPL về xử lý vi phạm hành chính năm 2021Thông tinTinKết quả rà soát các văn bản QPPL về xử lý vi phạm hành chính năm 2021/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
12/6/2021 5:00 PMNoĐã ban hành

Để đảm bảo công tác triển khai thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính (XLVPHC) trên địa bàn tỉnh được kịp thời, toàn diện, thống nhất và hiệu quả; Sở Tư pháp đã phối hợp với các ngành, đơn vị liên quan tiến hành rà soát và đề xuất xử lý các văn bản QPPL do Trung ương và HĐND, UBND tỉnh Bình Dương ban hành thời gian qua với kết quả như sau:

Tổng số văn bản QPPL được tập hợp để rà soát: 32 văn bản (gồm: 22 văn bản của Trung ương và 10 văn bản của địa phương), trong đó:

+ Số văn bản QPPL của Trung ương có giao thẩm quyền cho HĐND, UBND tỉnh ban hành văn bản quy định chi tiết: 02 văn bản, với 05 nội dung;

+ Số văn bản do Trung ương và HĐND, UBND tỉnh ban hành không đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ: 01 văn bản;

+ Số văn bản do Trung ương và HĐND, UBND tỉnh ban hành không đảm bảo tính khả thi: 02 văn bản, với 02 nội dung.

Trên cơ sở kết quả rà soát các văn bản QPPL do Trung ương và HĐND, UBND tỉnh ban hành thời gian qua liên quan đến lĩnh vực XLVPHC, Sở Tư pháp nhận thấy, tình hình ban hành văn bản quy định chi tiết của địa phương liên quan đến công tác này thời gian qua là tương đối đầy đủ, nội dung các quy định cơ bản đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, khả thi, đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý thi hành pháp luật về XLVPHC trên địa bàn tỉnh. Đồng thời, Sở Tư pháp cũng có kiến nghị UBND tỉnh đối với văn bản không đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ và tính khả thi./.

FalseNguyễn Thị Linh
Tài liệu rà soát văn bản quy phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính năm 2021Văn bản điều hànhTinTài liệu rà soát văn bản quy phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính năm 2021/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
11/3/2021 9:00 AMYesĐã ban hành

Thực hiện nhiệm vụ được giao tại Kế hoạch số 962/KH-UBND ngày 11/3/2021 của UBND tỉnh về triển khai thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính trên địa bàn tỉnh Binh Dương năm 2021, Sở Tư pháp đã lập Danh mục văn bản quy phạm pháp luật do Trung ương và địa phương ban hành còn hiệu lực liên quan đến xử lý vi phạm hành chính (kèm theo đề cương báo cáo và các mẫu danh mục) gửi các đơn vị nghiên cứu, thực hiện./.​


1. DANH MUC VAN BAN QPPL XLVPHC.doc

2. DE CUONG BAO CAO.docx

3. MAU DANH MUC KEM THEO BC.docx

CV_1500_STP-TDTHPL.signed.pdf

False
Công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trên địa bàn tỉnh Bình Dương 06 tháng đầu năm 2021Thông tinTinCông tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trên địa bàn tỉnh Bình Dương 06 tháng đầu năm 2021/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
8/3/2021 4:00 PMYesĐã ban hành

​​Từ ngày 01/01/2021 đến hết ngày 30/6/2021, tổng số vụ vi phạm hành chính bị phát hiện trên địa bàn tỉnh là 6.872/4.432 vụ, tăng 2.410 vụ so với cùng kỳ (số liệu này không bao gồm số liệu của ngành dọc).

Vi phạm hành chính xảy ra phổ biến nhất trong các lĩnh vực như: y tế; bảo vệ môi trường; an ninh, trật tự, an toàn xã hội với nguyên nhân chủ yếu là do tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bình Dương ngày càng tăng cao, đã thu hút số lượng lớn các doanh nghiệp trong và ngoài nước đến đầu tư sản xuất, kinh doanh dẫn đến việc người dân từ nhiều địa phương khác đến làm ăn và sinh sống. Ngoài ra, trong 06 tháng đầu năm 2021, trước diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid-19 đã ảnh hưởng trực tiếp đến tỉnh Bình Dương, các cá nhân, tổ chức vì lợi ích cá nhân của mình đã bất chấp việc vi phạm các quy định của pháp luật; ý thức của một số tổ chức, cá nhân còn hạn chế.

Tình hình xử phạt vi phạm hành chính: trong số 6.872 vụ vi phạm hành chính bị phát hiện: đã ban hành 6.779 quyết định xử phạt vi phạm hành chính (số quyết định đã thi hành: 6.267 quyết định; số quyết định chưa thi hành: 512 quyết định) với số tiền phạt thu được là: 37.334.532.955 đồng./.

Báo cáo chi tiết:186-BC.XLVPHC.pdf

 

False
Tài liệu báo cáo kết quả công tác xử lý vi phạm hành chính 06 tháng đầu năm 2021Văn bản điều hànhTinTài liệu báo cáo kết quả công tác xử lý vi phạm hành chính 06 tháng đầu năm 2021/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
6/28/2021 11:00 AMNoĐã ban hànhFalse
Những nội dung về xử phạt người chưa thành niên vi phạm hành chính cần được quy định chi tiếtThông tinTinNhững nội dung về xử phạt người chưa thành niên vi phạm hành chính cần được quy định chi tiết/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
6/2/2021 5:00 PMNoĐã ban hành

​1. Dẫn nhập

Theo pháp luật hiện hành, đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính (VPHC) gồm cá nhân, tổ chức. Xét riêng về cá nhân thì chủ thể bị xử phạt VPHC bao gồm công dân Việt Nam, người nước ngoài và cả người không quốc tịch. Cá nhân bị xử phạt VPHC phải thỏa mãn điều kiện về độ tuổi. Theo đó, tuổi bị xử phạt VPHC được chia làm hai loại: i) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử phạt VPHC về VPHC do cố ý; ii) Người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt VPHC về mọi VPHC.

Điều 21 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: "người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi". Điều 1 Luật Trẻ em năm 2016 quy định "trẻ em là người dưới 16 tuổi". Như vậy, theo pháp luật Việt Nam, khái niệm người chưa thành niên có nội hàm rộng hơn trẻ em bởi người chưa thành niên bao gồm trẻ em và người từ đủ 16 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi[1]. Ở ngưỡng trước 18 tuổi, con người bước vào thời kỳ phát triển bản lề, có sự thay đổi nhanh, rõ rệt về thể chất, tâm sinh lý nhưng sự phát triển này vẫn nằm trong giai đoạn cuối của thời kỳ chưa trưởng thành, nhận thức chưa đầy đủ, tâm lý chưa ổn định[2]. Do đó, có thể hiểu, người chưa thành niên là người chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý như người thành niên. VPHC do người chưa thành niên thực hiện thường thể hiện những đặc điểm sau:

Một là, VPHC do người chưa thành niên thực hiện thường mang tính bột phát, không có động cơ, mục đích rõ ràng.

Người chưa thành niên là ngườicòn non nớt về trí tuệ. Đây là độ tuổi có tính chất là giai đoạn chuyển tiếp của sự tăng trưởng và phát triển đến tuổi trưởng thành[3]. Ở lứa tuổi này, con người phát triển mạnh về mặt sinh học nhưng lại thiếu cân đối về mặt trí tuệ. Đây là lứa tuổi mà kinh nghiệm trong cuộc sống còn ít ỏi, đặc biệt là khả năng nhận thức về pháp luật vẫn còn nhiều hạn chế. Do việc kiềm chế cảm xúc còn hạn chế nên nhiều hành vi của người chưa thành niên mang tính bột phát. Trong các hành vi này sẽ có những hành vi cấu thành một VPHC. Chính vì tính bột phát nên động cơ, mục đích không rõ ràng, không được xác định trước.

Hai là, VPHC của người chưa thành niên được thực hiện thường do sự lôi kéo, xúi giục, kích động, dụ dỗ của người thành niên.

Người chưa thành niêncó tâm lý khá phức tạp, không ổn định, mang tính giao thời giữa tính cách vừa trẻ con, vừa người lớn. Trong độ tuổi này, người chưa thành niên thường có nhu cầu chứng tỏ bản thân cũng như muốn thể hiện mình là người trưởng thành. Chính vì hiểu được đặc điểm này nên một số đối tượng là người thành niên đã lôi kéo, xúi giục, kích động, dụ dỗ người chưa thành niên vi phạm pháp luật nói chung và VPHC nói riêng.

Ba là, VPHC của người chưa thành niên được thực hiện thường do sự không quan tâm, chăm sóc chu đáo của cha mẹ, gia đình.

Cách ứng xử của người chưa thành niênphụ thuộc vào điều kiện, môi trường sống và sự giáo dục từ gia đình, nhà trường và xã hội. Người chưa thành niên luôn có nhu cầu tìm hiểu và khám phá cái mới. Tuy vậy, việc tìm hiểu và khám phá cái mới cũng có thể trở thành một trong những nguyên nhân dẫn tới VPHC (ví dụ: hành vi buông hai tay khi điều khiển xe tham gia giao thông; lạng lách, đánh võng; điều khiển xe bằng chân…). Do đó, nếuthiếu sự căm sóc, hướng dẫn, quản lý của cha mẹ, gia đình thì người chưa thành niên rất dễ VPHC.

Bốn là, VPHC của người chưa thành niên thường được thể hiện một cách rõ ràng, dễ nhận biết, được thực hiện nhanh chóng và ít có quyết tâm thực hiện đến cùng nếu bị ngăn cản.

Nếu như VPHC do người thành niên thực hiện thường được chuẩn bị kỹ lưỡng, có cách thức, thủ đoạn rõ ràng thì VPHC do người chưa thành niên thực hiện thường không có những đặc điểm này. Ở cái tuổi "ăn chưa no, lo chưa tới" thì VPHC do người chưa thành niên thực hiện thường rất rõ ràng, dễ nhận biết. Do mang tính bột phát nên những vi phạm này thường diễn ra nhanh chóng. Ngoài ra, do không có động cơ, mục đích rõ ràng nên các vi phạm này thường sẽ không thực hiện đến cùng nếu như bị ngăn cản[4].

Để răn đe, giáo dục người chưa thành niên VPHC thì xử phạt VPHC được xem là một trong những công cụ hữu hiệu. Tuy nhiên, ngay cả khi áp dụng chế tài hành chính đối với người chưa thành niên vi phạm thì Nhà nước cũng cần có những cam kết nhằm bảo đảm cho việc xử phạt VPHC được diễn ra công khai, khách quan, bảo đảm công bằng, đúng quy định của pháp luật. Trong bối cảnh Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý VPHC năm 2012 (Luật Xử lý VPHC) có hiệu lực thi hành (ngày 01/01/2022) thì các văn bản quy định chi tiết cần phải thể hiện rõ các nội dung liên quan đến xử phạt VPHC người chưa thành niên.

2. Quy định chi tiết cách tính tuổi của người chưa thành niên bị xử phạt VPHC trong trường hợp không thể xác định chính xác ngày, tháng sinh

 Khi xử phạt VPHC đối với cá nhân thì độ tuổi đóng vai trò rất quan trọng. Đối với người chưa thành niên thì độ tuổi càng đóng vai trò quyết định. Cụ thể, độ tuổi là căn cứ không thể thiếu để người có thẩm quyền quyết định có hay không việc xử phạt VPHC đối với người chưa thành niên. Theo quy định của điểm a khoản 1 Điều 5 Luật Xử lý VPHC, "người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử phạt VPHC về VPHC do cố ý". Như vậy, độ tuổi đóng vai trò rất quan trọng trong việc xác định có hay không VPHC để từ đó ra quyết định xử phạt VPHC. Ngoài ra, độ tuổi cũng là cơ sở để quyết định việc áp dụng hình thức xử phạt và mức tiền phạt tương ứng đối với người chưa thành niên. Khoản 3 Điều 134 Luật Xử lý VPHC quy định: "Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi VPHC thì không áp dụng hình thức phạt tiền. Trường hợp người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi VPHC bị phạt tiền thì mức tiền phạt không quá ½ mức tiền phạt áp dụng đối với người thành niên". Tuy nhiên, Luật Xử lý VPHC và các văn bản hướng dẫn thi hành lại không quy định cụ thể về cách tính tuổi để ra quyết định xử phạt VPHC trong trường hợp không thể xác định chính xác ngày, tháng sinh của người chưa thành niên.

Theo Điều 13 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP đã được sửa đổi, bổ sung một số điều bởi Nghị định số 97/2017/NĐ-CP (Nghị định số 81) của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý VPHC thì:

"1. Trường hợp không có các giấy tờ để xác định độ tuổi xử lý VPHC thì căn cứ vào sổ hộ tịch hoặc các giấy tờ, sổ sách, tài liệu khác của cơ quan nhà nước có liên quan để xác định độ tuổi của đối tượng.

Trường hợp thông tin ngày, tháng, năm sinh ghi trong các giấy tờ trên không thống nhất, thì xác định theo ngày, tháng, năm sinh trong giấy tờ theo hướng có lợi nhất cho đối tượng.

2. Trường hợp giấy tờ quy định tại Khoản 1 Điều này không ghi rõ ngày, tháng, năm sinh, thì việc xác định ngày, tháng, năm sinh được tính như sau:

a) Nếu xác định được tháng cụ thể, nhưng không xác định được ngày nào trong tháng, thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh;

b) Nếu xác định được quý cụ thể của năm, nhưng không xác định được ngày tháng nào trong quý, thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong quý đó làm ngày sinh;

c) Nếu xác định được cụ thể nửa đầu năm hay nửa cuối năm, nhưng không xác định được ngày, tháng nào trong nửa đầu năm hoặc nửa cuối năm, thì lấy ngày 30 tháng 6 hoặc ngày 31 tháng 12 của năm đó làm ngày sinh;

d) Nếu xác định được năm cụ thể nhưng không xác định được ngày, tháng, thì lấy ngày 31 tháng 12 của năm đó làm ngày sinh".

Điều cần lưu ý là phạm vi của Điều 13 Nghị định số 81 chỉ áp dụng đối với việc xác định độ tuổi của người bị xử lý hành chính. Quy định này không thể trở thành căn cứ áp dụng để xác định độ tuổi đối với người bị xử phạt hành chính. Câu hỏi đặt ra là cách xác định độ tuổi của người chưa thành niên bị xử phạt hành chính có giống quy định tại Điều 13 Nghị định số 81 hay không? Hiện nay, pháp luật còn bỏ ngỏ và không có câu trả lời cụ thể.

Khoản 1Điều 14 Nghị định số 81 quy định: "Khi tiến hành xử phạt VPHC đối với người chưa thành niên, trường hợp không xác định được chính xác tuổi để áp dụng hình thức xử phạt, thì người có thẩm quyền xử phạt lựa chọn áp dụng hình thức xử phạt có lợi nhất cho người vi phạm". Tuy nhiên, "lựa chọn áp dụng hình thức xử phạt có lợi nhất khi tiến hành xử phạt VPHC đối với người chưa thành niên" không phải là một quy định tối ưu nhằm giải quyết mọi vướng mắc trên thực tế. Dường như điều khoản trên chỉ có ý nghĩa đối với những VPHC do người chưa thành niên thực hiện mà chế tài quy định có thể áp dụng một trong các hình thức xử phạt khác nhau (ví dụ: khoản 1 Điều 72 Nghị định số 100/2019/NĐ-CP quy định cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng đối với "hành vi sử dụng vé tàu giả để đi tàu"). Đối với những VPHC mà chế tài quy định chỉ áp dụng một hình thức xử phạt cố định thì điều khoản trên hoàn toàn không có giá trị (ví dụ: khoản 4 Điều 5 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP quy định phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi "gây rối trật tự công cộng mà có mang theo các loại vũ khí thô sơ hoặc công cụ hỗ trợ"). Từ đó, người có thẩm quyền sẽ không thể biết và lựa chọn áp dụng hình thức xử phạt nào có lợi nhất cho người chưa thành niên VPHC. Trong trường hợp pháp luật chỉ quy định chế tài phạt tiền thì người có thẩm quyền không thể "linh hoạt" phạt cảnh cáo người chưa thành niên vi phạm (ngoại trừ đối tượng là người đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi). Người có thẩm quyền cũng không thể phạt ở mức tiền tối thiểu nếu như không có tình tiết giảm nhẹ. Bên cạnh đó, ngay cả khi phạt tiền ở mức tối thiểu thì đây cũng chỉ là lựa chọn "mức tiền phạt có lợi nhất" chứ không phải "hình thức xử phạt có lợi nhất" cho người người chưa thành niên VPHC.

Như vậy, với quy định của Điều 13 và Điều 14 Nghị định số 81 thì người có thẩm quyền sẽ không thể có cơ sở pháp lý vững chắc nhằm xác định tuổi của người chưa thành niên vi bị xử phạt phạm hành chính. Để khắc phục bất cập này, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần sớm ban hành văn bản xác định cụ thể độ tuổi của người bị xử phạt VPHC nói chung và của người chưa thành niên nói riêng.

3. Quy định cụ thể nguyên tắc làm cơ sở xác định chính xác mức tiền phạt đối với người chưa thành niên VPHC

 Theo quy định của khoản 3 Điều 134 Luật Xử lý VPHC, "trường hợp người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi VPHC thì không áp dụng hình thức phạt tiền. Trường hợp người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi VPHC bị phạt tiền thì mức tiền phạt không quá 1/2 mức tiền phạt áp dụng đối với người thành niên". Như vậy, pháp luật xử phạt VPHC của nước ta đã thể hiện rõ tinh thần bảo đảm quyền lợi tốt nhất của người chưa thành niên khi quy định trách nhiệm hành chính của người chưa thành niên nhẹ hơn so với người thành niên. Tuy nhiên, liên quan đến mức tiền phạt thì quy định "mức tiền phạt không quá 1/2 mức tiền phạt áp dụng đối với người thành niên" lại không thật sự rõ ràng và tạo ra cách áp dụng pháp luật không thống nhất[5].

Ví dụ: theo điểm c khoản 3 Điều 5 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ thì hành vi "lôi kéo người khác đánh nhau" sẽ bịphạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng. Nếu chủ thể vi phạm là người thành niên và không có tình tiết tăng nặng hay tình tiết giảm nhẹ thì sẽ bị phạt mức tiền trung bình là 2.500.000 đồng. Tuy nhiên, nếu chủ thể vi phạm là người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổivà không có tình tiết tăng nặng hay tình tiết giảm nhẹ sẽ bị phạt bao nhiêu thì không có chuẩn mực chung trong việc áp dụng.

Theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2019, người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổithường chưa đủ độ tuổi để trực tiếp tham gia vào các quan hệ pháp luật lao động nên chưa có khả năng tạo lập được nguồn tài chính riêng. Do đó, quy định không áp dụng hình thức phạt tiền đối với nhóm người chưa thành niên ở lứa tuổi này là hoàn toàn phù hợp[6]. Đối với người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thì có thể tham gia vào các quan hệ lao động, làm công ăn lương nên quy định hình thức phạt tiền là khá hợp lý. Tuy nhiên, vấn đề có tính pháp lý đặt ra là phải quy định rõ ràng nguyên tắc để từ đó có thể xác định chính xác mức tiền phạt đối với người chưa thành niên VPHC trong các trường hợp cụ thể.

Xuất phát từ đặc trưng VPHC do người chưa thành niên thực hiện thường mang tính bột phát, không có động cơ, mục đích rõ ràng nên khi xử phạt người chưa thành niên VPHC, cần phải kết hợp hài hòa giữa mục đích răn đe và giáo dục. Chính vì vậy, mức tiền phạt đối với người chưa thành niên VPHC cũng cần được quy định thành nguyên tắc rõ ràng trên cơ sở xem xét những tình tiết liên quan đến ý thức, thái độ, hành vi. Theo đó, nếu người chưa thành niên có những tình tiết như "tự nguyện khai báo, thành thật hối lỗi""đã có hành vi ngăn chặn, làm giảm bớt hậu quả của vi phạm""đã tích cực giúp đỡ cơ quan chức năng phát hiện VPHC, xử lý VPHC" thì cần được ghi nhận và khoan hồng. Có thể do bồng bột, người chưa thành niên thực hiện VPHC với lỗi cố ý. Tuy nhiên, sau khi vi phạm thì người chưa thành niên có ý thức, thái độ, hành vi hướng thiện. Chính ý thức, thái độ, hành vi của người chưa thành niên sau khi vi phạm mới là chìa khóa quan trọng, phản ánh sự nhận thức hối cải của chủ thể. Do đó, trên cơ sở hệ số tương đối "không quá 1/2" trong Luật Xử lý VPHC, cần quy định rõ ràng nguyên tắc xác định mức phạt tiền áp dụng đối với người chưa thành niên căn cứ vào các tình tiết liên quan đến ý thức, thái độ, hành vi.

4. Quy định chi tiết trường hợp cha mẹ hoặc người giám hộ phải thực hiện thay nghĩa vụ nộp tiền phạt trong trường hợp người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi VPHC mà không có tiền nộp phạt

Khoản 3 Điều 134 Luật Xử lý VPHC quy định: "Trường hợp người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi VPHC mà không có tiền nộp phạt thì cha mẹ hoặc người giám hộ phải thực hiện thay".

Mục đích chính của việc thực hiện thay nghĩa vụ này là nhằm xác định trách nhiệm của cha mẹ hoặc người giám hộ đối với con em mình. Nói cách khác, đây là hậu quả bất lợi mà cha mẹ hoặc người giám hộ của người chưa thành niên phải gánh chịu vì đã không thực hiện nghĩa vụ giáo dục, chăm sóc người chưa thành niên một cách đầy đủ, đúng mực[7]. Trong trường hợp này, nếu cha mẹ hoặc người giám hộ thực hiện nghĩa vụ nộp tiền thay cho người chưa thành niên thì quyết định xử phạt VPHC xem như được thi hành. Ngược lại, nếu cha mẹ hoặc người giám hộ không thực hiện nghĩa vụ nộp tiền thay thì sẽ giải quyết như thế nào? Liệu rằng người có thẩm quyền có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt VPHC quy định tại Điều 86 Luật Xử lý VPHC hay không?

Nội dung các biện pháp quy định tại điểm a, b, c khoản 2 Điều 86 Luật Xử lý VPHC là nhằm bảo đảm thi hành các quyết định phạt tiền cho thấy, các biện pháp này chỉ áp dụng đối với người VPHC; đối với cha mẹ hoặc người giám hộ của người chưa thành niên - những người không VPHC thì không thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế này. Trên thực tế, có khá nhiều quyết định phạt tiền đối với người chưa thành niên không thể thi hành bởi người chưa thành niên không có tiền nộp phạt, cha mẹ hoặc người giám hộ của người chưa thành niên tuy có tiền, có tài sản nhưng cũng không thực hiện nghĩa vụ nộp tiền thay cho người chưa thành niên[8]. Người có thẩm quyền cũng không thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt VPHC đối với cha mẹ hoặc người giám hộ của người chưa thành niên. Đây là một thiếu sót cần được khắc phục.

5. Quy định rõ nghĩa vụ của cha mẹ hoặc người giám hộ phải nộp một khoản tiền tương đương trị giá tang vật, phương tiện vi phạm vào ngân sách nhà nước để thay thế cho việc thực hiện hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện VPHC

Theo quy định của Điều 135 Luật Xử lý VPHC, người chưa thành niên VPHC có thể bị áp dụng các hình thức xử phạt: i) Cảnh cáo; ii) Phạt tiền; iii) Tịch thu tang vật, phương tiện VPHC. Trong các hình thức xử phạt trên thì hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện VPHC được áp dụng đối với tang vật, phương tiện có liên quan trực tiếp đến VPHC nghiêm trọng, do lỗi cố ý của người chưa thành niên. Thế nhưng trên thực tế, xuất hiện trường hợp người chưa thành niên thực hiện VPHC nghiêm trọng với lỗi cố ý, tang vật, phương tiện có liên quan trực tiếp đến vi phạm nhưng lại không bị tịch thu. Đó là trường hợp tang vật, phương tiệnbị chiếm đoạt, sử dụng trái phép (ví dụ: dùng xe trộm cắp để thực hiện hành vi đua xe trái phép). Theo đó, đối với tang vật, phương tiện đang bị tạm giữ do bị chiếm đoạt, sử dụng trái phép để VPHC thuộc trường hợp bị tịch thu thì trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hoặc người sử dụng hợp pháp. Trong trường hợp này, người chưa thành niên vi phạm phải nộp một khoản tiền tương đương trị giá tang vật, phương tiện vi phạm vào ngân sách nhà nước để thay thế cho việc thực hiện hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện VPHC. Nếu không nộp thì bị cưỡng chế thực hiện theo quy định tại Điều 86 Luật Xử lý VPHC và Nghị định số 166/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ[9].

Tuy nhiên, phần lớn người chưa thành niên không có thu nhập, tài sản riêng nên việc buộc người chưa thành niên phải nộp khoản tiền tương đương là bất khả thi. Bên cạnh đó, pháp luật xử phạt VPHC cũng không quy định nghĩa vụ của cha mẹ hoặc người giám hộ phải nộp một khoản tiền tương đương thay thế trong trường hợp người chưa thành niên VPHC không thể nộp.

Theo chúng tôi, để bảo đảm cho việc thi hành hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện VPHC trong trường hợp người chưa thành niên vi phạm không nộp một khoản tiền tương đương, cần quy định chi tiết nghĩa vụ này thuộc vềcha mẹ hoặc người giám hộ. Trên thực tế, trong trường hợp người vi phạm bị áp dụng hình thức xử phạt chính là phạt tiền và hình thức xử phạt bổ sung là tịch thu tang vật, phương tiện VPHC mà tang vật, phương tiện thuộc diện bị chiếm đoạt, sử dụng trái phép thì tang vật, phương tiện này sẽ được quy đổi ra khoản tiền tương đương rồi cộng với số tiền phạt./.

           

 


* Bài viết có sử dụng kết quả nghiên cứu của Đề tài nghiên cứu khoa học "Xử phạt VPHC đối với người chưa thành niên ở Việt Nam - Thực trạng và hướng hoàn thiện" do TS. Cao Vũ Minh làm chủ nhiệm.

[1]Phạm Thị Thanh Nga - Nguyễn Xuân Tĩnh, "Trẻ em" và "người chưa thành niên" trong pháp luật Việt Nam: nhìn từ nghĩa vụ thực hiện Công ước của Liên hiệp quốc về quyền trẻ em và tính thống nhất của hệ thống pháp luật, Tạp chí Nghiên cứu Lập phápsố 15, năm 2017.

[2]Cao Vũ Minh, "Hoàn thiện quy định pháp luật về biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng nhằm bảo vệ quyền của người chưa thành niên theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013", Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 20, năm 2015.

[3] Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình tâm lý học tội phạm, Nxb. Công an nhân dân, năm 2017 tr. 116.

[4] Hoàng Minh Khôi, "Đặc điểm và một số nguyên nhân dẫn đến vi phạm pháp luật của người chưa thành niên", Tạp chí Nghiên cứu Lập phápsố 14, năm 2012.

[5]Báo cáo số 09/BC-BTP ngày 08/01/2018 của Bộ Tư pháp tổng kết thi hành Luật Xử lý VPHC.

[6]Nguyễn Cảnh Hợp (chủ biên), Bình luận khoa học Luật Xử lý VPHC năm 2012 (tái bản lần thứ 1), Nxb. Hồng Đức, năm 2017, tr. 798.  

[7]Nguyễn Thị Phương Châm, "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra từ góc nhìn pháp luật so sánh", Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 5, năm 2020.

[8]Báo cáo số 265/BC-UBNDtổng kết công tác tư phápnăm 2019 của Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh, ngày 27/11/2019; Công văn số 779/STP-QLXLVPHC&TDTHPL ngày 10/11/2020 của Sở Tư pháp tỉnh Sóc Trăng báo cáo tình hình thi hành pháp luật về xử lý VPHC năm 2020.

[9]Theo khoản 1 Điều 126 Luật Xử lý VPHC và khoản 4 Điều 11a Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 97/2017/NĐ-CP).


Nguồn: http://lapphap.vn/Pages/TinTuc/210763/Nhung-noi-dung-ve-xu-phat-nguoi-chua-thanh-nien-vi-pham-hanh-chinh-can-duoc-quy-dinh-chi-tiet.html


 

False
Triển khai công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính năm 2021Văn bản điều hànhTinTriển khai công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính năm 2021/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
5/26/2021 3:00 PMNoĐã ban hành

Ngày 21/5/2021, Chủ tịch UBND tỉnh đã ban hành Công văn số 2147/UBND-NC về việc triển khai công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính năm 2021.

CV 2147.png

Theo đó, nhằm triển khai Quyết định số 126/QĐ-TTg ngày 26/01/2021 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính (XLVPHC), Kế hoạch số 962/KH-UBND ngày 11/3/2021 của UBND tỉnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật XLVPHC trên địa bàn tỉnh Bình Dương và chỉ đạo của Văn phòng Chính phủ tại Công văn số 2426/VPCP-PL ngày 06/4/2021 được kịp thời, đồng bộ, hiệu quả; Chủ tịch UBND tỉnh có ý kiến như sau:

1. Thủ trưởng các sở, ban, ngành; Chủ tịch UBND các huyện, thị xã, thành phố tập trung triển khai thực hiện một số nội dung như: Khẩn trương triển khai thực hiện các nhiệm vụ được giao tại Kế hoạch số 962/KH-UBND ngày 11/3/2021 của UBND tỉnh; Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về XLVPHC; Triển khai thực hiện đầy đủ, nghiêm túc, hiệu lực, hiệu quả các quy định của Nghị định số 19/2020/NĐ-CP ngày 12/02/2020 của Chính phủ;…

2. Giao Sở Tư pháp theo dõi, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện công tác thi hành pháp luật về XLVPHC trên địa bàn tỉnh; kịp thời tổng hợp những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong quá trình triển khai thực hiện để đề xuất, tham mưu UBND tỉnh kiến nghị Bộ Tư pháp chỉ đạo xử lý./.

Đính kèm văn bản:2147-NC.signed.pdf

 

False
Hội nghị triển khai thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chínhThông tin; Tin ngành tư phápTinHội nghị triển khai thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính/XLVPHCTDTHPL/PublishingImages/2021-04/hoi nghi 2_Key_29042021154335.jpg
4/29/2021 3:00 PMNoĐã ban hành
Sáng ngày 27/4/2021, tại Thành phố Hồ Chí Minh, Bộ Tư pháp tổ chức Hội nghị triển khai thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính do Cục trưởng Cục QLXLVPHC&TDTHPL Đặng Thanh Sơn chủ trì; cùng tham gia có các đại biểu đại diện cho các cơ quan: Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước, đại diện các UBND, Sở Tư pháp của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thuộc khu vực miền Nam. Về phía tỉnh Bình Dương có sự tham gia của ông Nguyễn Quốc Trí – Phó Giám đốc Sở Tư pháp.
hoi nghi 2.jpg 
(ông Đặng Thanh SơnCục trưởng Cục QLXLVPHC&TDTHPL)

Phát biểu khai mạc Hội nghị, ông Đặng Thanh Sơn đã nêu rõ: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính số 67/2020/QH14 đã được Quốc hội Khóa XIV thông qua tại kỳ họp thứ 10 (ngày 13/11/2020), có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2022. So với Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính đã sửa đổi, bổ sung rất nhiều nội dung quan trọng như: Mức phạt tiền tối đa trong các lĩnh vực; thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính; thủ tục xử phạt và thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính; đối tượng, điều kiện, thủ tục áp dụng các biện pháp xử lý hành chính; các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính...

Tại Hội nghị, đại diện của Bộ Tư pháp (Cục QLXLVPHC&TDTHPL) giới thiệu về những điểm mới của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính, cũng như những nội dung quan trọng, những điểm cần lưu ý khi triển khai thực hiện các nhiệm vụ được Thủ tướng Chính phủ giao tại Quyết định số 126/QĐ-TTg.

Ngoài ra, Hội nghị cũng đã dành thời gian để trao đổi, giải đáp những thắc mắc, những vấn đề còn chưa rõ trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính.

Một số hình ảnh của Hội nghị:

hoi nghi 1.jpg 
(Toàn cảnh Hội nghị)

hoi nghi 3.jpg

(các đại biểu tham dự Hội nghị)

 

False
Báo cáo Tổng kết 08 năm thực hiện Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 97/2017/NĐ-CP)Thông tinTinBáo cáo Tổng kết 08 năm thực hiện Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 97/2017/NĐ-CP)/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
3/22/2021 3:00 PMNoĐã ban hànhFalse
Báo cáo Tổng kết 08 năm thực hiện Nghị định số 111/2013/NĐ-CP ngày 30/9/2013 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 56/2016/NĐ-CP)Thông tinTinBáo cáo Tổng kết 08 năm thực hiện Nghị định số 111/2013/NĐ-CP ngày 30/9/2013 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 56/2016/NĐ-CP)/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
3/22/2021 3:00 PMNoĐã ban hànhFalse
Tỉnh Bình Dương ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính Chương trình - Kế hoạch công tácTinTỉnh Bình Dương ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính /Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
3/16/2021 3:00 PMNoĐã ban hành

Ngày 11/3/2021, Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương ban hành Kế hoạch số 962/KH-UBND về triển khai thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính trên địa bàn tỉnh Bình Dương (sau đây gọi là Luật).

Theo đó, Kế hoạch được ban hành nhằm mục đích tổ chức quán triệt, phổ biến sâu rộng các nội dung cơ bản của Luật đến cán bộ, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân trên địa bàn tỉnh; thực hiện tốt công tác tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ; kiện toàn, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm công tác xử lý vi phạm hành chính tại địa phương và tăng cường hơn nữa hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý và thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong giai đoạn hiện nay với các nội dung cụ thể như sau:   

1. Tổ chức hội nghị triển khai thi hành Luật cho các cơ quan, đơn vị, địa phương trên địa bàn tỉnh.

2. Tuyên truyền, phổ biến nội dung của Luật.

3. Rà soát và đề xuất sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc ban hành mới văn bản quy phạm pháp luật do địa phương ban hành để phù hợp với Luật.

4. Tổ chức tập huấn và bồi dưỡng nghiệp vụ.

5. Kiểm tra công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính./.

KH_962_UBND_TINH_BD.pdf

FalseNguyễn Thị Linh
Kế hoạch số 6504/KH-UBND ngày 31/12/2020 của Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện công tác quản lý thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trên địa bàn tỉnh Bình Dương năm 2021Văn bản điều hànhTinKế hoạch số 6504/KH-UBND ngày 31/12/2020 của Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện công tác quản lý thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trên địa bàn tỉnh Bình Dương năm 2021/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
2/2/2021 9:00 AMNoĐã ban hànhFalse
Báo cáo số 335/BC-UBND ngày 18/12/2020 của Ủy ban nhân dân tỉnh báo cáo công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trên địa bàn tỉnh Bình Dương năm 2020Thông tinTinBáo cáo số 335/BC-UBND ngày 18/12/2020 của Ủy ban nhân dân tỉnh báo cáo công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trên địa bàn tỉnh Bình Dương năm 2020/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
12/28/2020 3:00 PMNoĐã ban hànhFalse
Tài liệu báo cáo kết quả rà soát văn bản quy phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính năm 2020Văn bản điều hànhTinTài liệu báo cáo kết quả rà soát văn bản quy phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính năm 2020/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
9/3/2020 2:00 PMNoĐã ban hànhFalse
Phạt tối đa 2 tỷ đồng đối với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực dầu khí Thông tin; Văn bản QPPLTinPhạt tối đa 2 tỷ đồng đối với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực dầu khí /Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
8/31/2020 11:00 AMNoĐã ban hành

Ngày 26/8/2020, Chính phủ ban hành Nghị định số 99/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực dầu khí, kinh doanh xăng dầu và khí.

Nghị định quy định đối với mỗi hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực dầu khí, kinh doanh xăng dầu và khí, tổ chức, cá nhân vi phạm phải chịu hình thức xử phạt chính là phạt tiền.

NĐ99.jpg

(Ảnh minh họa)

Theo Nghị định, mức phạt tiền tối đa trong lĩnh vực thăm dò, khai thác dầu khí là 1 tỷ đồng đối với cá nhân và 2 tỷ đồng đối với tổ chức.

Cụ thể, đối với hoạt động thăm dò dầu khí, Nghị định quy định phạt tiền từ 300 - 400 triệu đồng đối với hành vi khoan ra ngoài diện tích ghi trong hợp đồng dầu khí khi cơ quan có thẩm quyền chưa cho phép mà chưa phát sinh các nguồn lợi hoặc số tiền thu lợi bất hợp pháp dưới 1 tỷ đồng. 

Phạt tiền từ 400-600 triệu đồng đối với hành vi tiến hành hoạt động tìm kiếm thăm dò dầu khí khi hợp đồng dầu khí hoặc chương trình công tác và ngân sách hàng năm chưa được các cấp có thẩm quyền phê duyệt mà chưa phát sinh các nguồn lợi hoặc số tiền thu lợi bất hợp pháp dưới 1 tỷ đồng.

Phạt tiền từ 600-800 triệu đồng đối với hành vi tiến hành hoạt động tìm kiếm, thăm dò dầu khí tại khu vực nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tuyên bố cấm hoặc tạm thời cấm mà chưa phát sinh các nguồn lợi hoặc số tiền thu lợi bất hợp pháp dưới 100 triệu đồng.

Phạt tiền từ 1,8-2 tỷ đồng đối với hành vi xâm phạm vùng thuộc đất liền, hải đảo, nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm nghiên cứu, tìm kiếm thăm dò dầu khí mà chưa phát sinh các nguồn lợi hoặc số tiền thu lợi bất hợp pháp dưới 100 triệu đồng.

Đối với những hành vi vi phạm quy định về hoạt động phát triển mỏ và khai thác dầu khí, Nghị định quy định phạt tiền từ 400-500 triệu đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau: Tiến hành hoạt động phát triển mỏ và khai thác dầu khí khi kế hoạch phát triển mỏ hoặc chương trình công tác và ngân sách hàng năm tương ứng chưa được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt; khai thác dầu khí vượt ra ngoài diện tích ghi trong hợp đồng khi chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép.

Phạt tiền từ 500-600 triệu đồng đối với hành vi tiến hành hoạt động khai thác dầu khí tại khu vực mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tuyên bố cấm hoặc tạm thời cấm.

Đối với hành vi xâm phạm vùng thuộc đất liền, hải đảo, nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm khai thác dầu khí bị phạt tiền từ 1,8-2 tỷ đồng.

Nghị định có hiệu lực từ 11/10/2020 và thay thế Nghị định 67/2017/NĐ-CP ngày 25/5/2017.

Linh Nguyễn

​​​NĐ 99.2020.NĐ-CP.pdf

 

FalseNguyễn Thị Linh
Nâng mức phạt buôn bán hàng giả, hàng cấm lên tối đa 400 triệu đồngThông tin; Văn bản QPPLTinNâng mức phạt buôn bán hàng giả, hàng cấm lên tối đa 400 triệu đồng/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
8/31/2020 10:00 AMNoĐã ban hành

Ngày 26/8/2020 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 98/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Theo đó, Nghị định này quy định về hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả, thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Theo Nghị định, các hành vi vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng bao gồm: Hành vi vi phạm về hoạt động kinh doanh theo giấy phép kinh doanh, trừ trường hợp đã được quy định tại nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước khác;  hành vi kinh doanh dịch vụ thuộc ngành nghề cấm đầu tư kinh doanh; sản xuất và buôn bán hàng giả, hàng cấm; hành vi kinh doanh hàng hóa nhập lậu; hàng hóa lưu thông trong nước bị áp dụng biện pháp khẩn cấp; hàng hóa quá hạn sử dụng, không rõ nguồn gốc, xuất xứ và có vi phạm khác; hành vi vi phạm về kinh doanh thuốc lá; hành vi vi phạm về kinh doanh rượu; hành vi đầu cơ hàng hóa và găm hàng; hành vi vi phạm về hoạt động xúc tiến thương mại; hành vi vi phạm về xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ liên quan đến xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa; hành vi vi phạm về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; hành vi vi phạm về thương mại điện tử; hành vi vi phạm về thành lập và hoạt động thương mại của thương nhân nước ngoài và người nước ngoài tại Việt Nam; các hành vi vi phạm khác trong hoạt động thương mại.

Các vi phạm hành chính khác trong hoạt động thương mại về kinh doanh xăng dầu, khí dầu mỏ hóa lỏng; giá, niêm yết giá hàng hóa, dịch vụ; chứng từ, hóa đơn mua bán hàng hóa, dịch vụ; đo lường, tiêu chuẩn, chất lượng hàng hóa lưu thông, kinh doanh trên thị trường; nhãn hàng hóa; sở hữu trí tuệ; thủ tục đăng ký kinh doanh; biển hiệu; quảng cáo thương mại; kinh doanh đấu giá hàng hóa; kinh doanh đấu thầu hàng hoá, dịch vụ; mua bán, trao đổi hàng hóa của cư dân biên giới và các hành vi vi phạm khác thì áp dụng quy định xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước có liên quan.

Đối với các hành vi đầu cơ hàng hóa, găm hàng, đấu thầu hàng hóa, dịch vụ và nhượng quyền thương mại có dấu hiệu của hành vi hạn chế cạnh tranh theo quy định của pháp luật về cạnh tranh thì áp dụng quy định về điều tra và xử lý vi phạm pháp luật cạnh tranh.

Đối với hành vi vi phạm hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh, phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh do cơ quan hải quan phát hiện trong địa bàn hoạt động hải quan thì áp dụng quy định tại Nghị định của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan. Trường hợp Nghị định của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan chưa quy định thì áp dụng các quy định của Nghị định này.

Ngoài hình thức phạt cảnh cáo, các hành vi  vi phạm còn có thể áp dụng hình thức thức phạt tiền với mức phạt tiền tối đa trong lĩnh vực thương mại, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là 100.000.000 đồng đối với cá nhân và 200.000.000 đồng đối với tổ chức; mức phạt tiền tối đa trong lĩnh vực sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm là 200.000.000 đồng đối với cá nhân và 400.000.000 đồng đối với tổ chức.

Ngoài ra còn có thể áp dụng các hình thức xử phạt bổ sung: Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn từ 01 tháng đến 24 tháng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 01 tháng đến 24 tháng; tịch thu tang vật vi phạm hành chính, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính (sau đây gọi chung là tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm). Đồng thời có thể áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả: buộc tiêu hủy hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và môi trường, văn hóa phẩm có nội dung độc hại; buộc thu hồi sản phẩm, hàng hóa không bảo đảm chất lượng; buộc thu hồi tên miền ".vn" của website thương mại điện tử hoặc buộc gỡ bỏ ứng dụng di động trên các kho ứng dụng hoặc trên các địa chỉ đã cung cấp…

Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/10/2020.

Linh Nguyễn

NĐ 98.2020.NĐ-CP.pdf

 

FalseNguyễn Thị Linh
Nghị định số 82/2020/NĐ-CP: Xử lý VPHC trong lĩnh vực thi hành án dân sựThông tinTinNghị định số 82/2020/NĐ-CP: Xử lý VPHC trong lĩnh vực thi hành án dân sự/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
7/24/2020 3:00 PMNoĐã ban hành

Ngày 15/7, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 82/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.

Nghị định này quy định về hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với hành vi vi phạm hành chính, thẩm quyền lập biên bản, thẩm quyền xử phạt, mức phạt tiền cụ thể theo từng chức danh đối với hành vi vi phạm hành chính trong các lĩnh vực sau đây:

Bổ trợ tư pháp, bao gồm: luật sư; tư vấn pháp luật; công chứng; giám định tư pháp; đấu giá tài sản; trọng tài thương mại; hòa giải thương mại; thừa phát lại;
Hành chính tư pháp, bao gồm: hộ tịch; quốc tịch; chứng thực; lý lịch tư pháp; phổ biến, giáo dục pháp luật; hợp tác quốc tế về pháp luật; trợ giúp pháp lý; đăng ký biện pháp bảo đảm; trách nhiệm bồi thường của Nhà nước;

Hôn nhân và gia đình;

Thi hành án dân sự;

Phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.

Quy định về mức phạt tiền, thẩm quyền phạt tiền đối với cá nhân, tổ chức

Mức phạt tiền tối đa đối với cá nhân trong các lĩnh vực: hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình là 30.000.000 đồng.

Mức phạt tiền tối đa đối với cá nhân trong các lĩnh vực: thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã là 40.000.000 đồng.

Mức phạt tiền tối đa đối với cá nhân trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp là 50.000.000 đồng.
Mức phạt tiền quy định tại các Chương II, III, IV, V, VI và VII Nghị định này được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính của cá nhân, trừ các điều quy định tại khoản 5 Điều này. Trường hợp tổ chức có hành vi vi phạm hành chính như của cá nhân thì mức phạt tiền bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân.
Mức phạt tiền quy định tại các Điều 7, 8, 9, 16, 17, 24, 26, 29, 33, 39, 50, 53, 63, 71, 72, 73, 74 và 80 Nghị định này là mức phạt tiền đối với hành vi vi phạm hành chính của tổ chức.

Thẩm quyền phạt tiền của các chức danh được quy định tại Chương VIII Nghị định này là thẩm quyền phạt tiền đối với một hành vi vi phạm hành chính của cá nhân, thẩm quyền phạt tiền tổ chức gấp 02 lần thẩm quyền phạt tiền cá nhân.

Hành vi vi phạm quy định trong lĩnh vực thi hành án dân sự

Cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi đã nhận giấy báo, giấy triệu tập lần thứ hai của người có thẩm quyền thi hành án nhưng không đến địa điểm ghi trong giấy báo, giấy triệu tập mà không có lý do chính đáng.

Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
a) Không cung cấp thông tin, không giao giấy tờ liên quan đến tài sản bị xử lý để thi hành án theo yêu cầu của người có thẩm quyền thi hành án mà không có lý do chính đáng;

b) Không thông báo cho cơ quan thi hành án dân sự khi có thay đổi về địa chỉ, nơi cư trú;

c) Không kê khai hoặc kê khai không đầy đủ, không chính xác tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án khi người có thẩm quyền thi hành án yêu cầu;

d) Có lời nói, hành động lăng mạ, xúc phạm người thi hành công vụ trong thi hành án dân sự;

đ) Chống đối, cản trở hoặc xúi giục người khác chống đối, cản trở hoạt động thi hành án dân sự;

e) Gây rối trật tự nơi thi hành án hoặc có hành vi khác gây trở ngại cho hoạt động thi hành án dân sự mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.

Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:

a) Không thực hiện công việc phải làm theo bản án, quyết định;

b) Không chấm dứt thực hiện công việc không được làm theo bản án, quyết định;
c) Trì hoãn thực hiện nghĩa vụ thi hành án trong trường hợp có điều kiện thi hành án;
d) Cung cấp chứng cứ sai sự thật cho cơ quan thi hành án dân sự.
Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
a) Làm hư hỏng tài sản để không thực hiện nghĩa vụ thi hành án hoặc để trốn tránh việc kê biên tài sản;

b) Phá hủy niêm phong tài sản đã kê biên;

c) Không chấp hành quyết định của người có thẩm quyền thi hành án về việc trừ vào thu nhập;

d) Không chấp hành quyết định của người có thẩm quyền thi hành án về việc tạm giữ tài sản, giấy tờ liên quan đến việc thi hành án;

đ) Không chấp hành quyết định của người có thẩm quyền thi hành án về việc tạm dừng đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản;
e) Không chấp hành quyết định của người có thẩm quyền thi hành án về việc giao, trả tài sản, giấy tờ thi hành án;

g) Không cung cấp thông tin mà không có lý do chính đáng hoặc cung cấp không đúng, không đầy đủ thông tin về tài khoản, thu nhập của người phải thi hành án;

h) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn cản trở việc cung cấp thông tin về tài khoản, thu nhập của người phải thi hành án và việc phong tỏa, khấu trừ để thi hành án; làm lộ thông tin hoặc lạm dụng thông tin về tài khoản, thu nhập của người phải thi hành án để sử dụng trái phép vào mục đích khác.

Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:

a) Tẩu tán tài sản để không thực hiện nghĩa vụ thi hành án hoặc để trốn tránh việc kê biên tài sản;

b) Sử dụng trái phép, tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu hoặc thay đổi tình trạng tài sản đã kê biên mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự;

c) Chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, cầm cố hoặc có hành vi khác nhằm chuyển quyền sở hữu, sử dụng tài sản bị hạn chế giao dịch theo quy định;

d) Hủy hoại tài sản đã kê biên;

đ) Không chấp hành quyết định của người có thẩm quyền thi hành án về việc thu tiền, tài sản của người phải thi hành án đang do người thứ ba giữ;

e) Không thực hiện quyết định thi hành án về việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc bản án, quyết định phải thi hành ngay của Tòa án;

g) Tiết lộ thông tin để người phải thi hành án chuyển, rút tiền khỏi tài khoản làm ảnh hưởng đến quá trình thi hành án.

Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
a) Không chấp hành quyết định của người có thẩm quyền thi hành án về việc khấu trừ tài khoản, thu giữ giấy tờ có giá của người phải thi hành án;

b) Không chấp hành quyết định của người có thẩm quyền thi hành án về việc thu tiền từ hoạt động kinh doanh của người phải thi hành án; về việc thu tiền của người phải thi hành án đang giữ;

c) Không chấp hành quyết định của người có thẩm quyền thi hành án về việc kê biên, sử dụng, khai thác quyền sở hữu trí tuệ thuộc quyền sở hữu của người phải thi hành án.

Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với hành vi không thực hiện quyết định của người có thẩm quyền thi hành án về việc phong tỏa tài khoản, tài sản của người phải thi hành án.

Biện pháp khắc phục hậu quả:

a) Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu do thực hiện hành vi vi phạm quy định tại điểm a khoản 4, các điểm a và b khoản 5 Điều này;

b) Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu trong trường hợp cần thiết theo quy định đối với hành vi vi phạm quy định tại điểm b khoản 3 Điều này.

Hành vi vi phạm quy định của thừa phát lại trong lĩnh vực thi hành án dân sự Cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi thông báo không đúng về thời hạn, hình thức của quyết định, giấy tờ, văn bản về thi hành án dân sự cho đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định.
Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau: a) Không thực hiện xác minh hoặc xác minh điều kiện thi hành án không bảo đảm thời hạn theo quy định;

b) Xác minh điều kiện thi hành án không đầy đủ nội dung cần xác minh hoặc không đúng đối tượng, không đúng địa điểm theo quy định;

c) Biên bản xác minh điều kiện thi hành án lập không đúng quy định;

d) Vi phạm quy định về bảo mật thông tin xác minh điều kiện thi hành án;

đ) Không thông báo các quyết định, giấy tờ, văn bản về thi hành án dân sự cho đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định.

Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau: a) Không cho đương sự thỏa thuận giá, thỏa thuận lựa chọn tổ chức thẩm định giá, tổ chức đấu giá tài sản;

b) Thực hiện việc ký hợp đồng thẩm định giá với tổ chức thẩm định giá không có chức năng thẩm định giá;

c) Không thông báo cho các đương sự về kết quả thẩm định giá trước khi ký hợp đồng đấu giá tài sản;

d) Không thực hiện đúng quy định về yêu cầu thẩm định giá lại tài sản của đương sự.

Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:

a) Thanh toán tiền thi hành án không đúng thứ tự, chia tỷ lệ không đúng quy định; b) Chi tiền mặt không đúng quy định đối với trường hợp người được thi hành án là doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân có tài khoản ngân hàng;

c) Thu tiền thi hành án nhưng nộp vào quỹ không đúng quy định;

d) Thanh toán tiền thi hành án không đúng đối tượng; không đúng thời hạn theo quy

định;

đ) Xác minh điều kiện thi hành án, tổ chức thi hành án liên quan đến quyền, lợi ích của bản thân và những người là người thân thích của mình, bao gồm: vợ, chồng, con đẻ, con nuôi, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, bác, chú, cậu, cô, dì và anh, chị, em ruột của thừa phát lại, của vợ hoặc chồng của thừa phát lại; cháu ruột mà thừa phát lại là ông, bà, bác, chú, cậu, cô, dì.

Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
a) Thu tiền thi hành án nhưng chưa nộp vào quỹ đúng quy định mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự;

b) Sử dụng tiền thi hành án không đúng quy định.

 Hình thức xử phạt bổ sung:

a) Tước quyền sử dụng thẻ thừa phát lại từ 06 tháng đến 09 tháng đối với hành vi vi phạm quy định tại các điểm c, d và đ khoản 4 Điều này;

b) Tước quyền sử dụng thẻ thừa phát lại từ 09 tháng đến 12 tháng đối với hành vi vi phạm quy định tại khoản 5 Điều này;

 Biện pháp khắc phục hậu quả:

Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm quy định tại khoản 4 và điểm b khoản 5 Điều này.

Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 9 năm 2020 và thay thế Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24 tháng 9 năm 2013 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã và Nghị định số 67/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 5 năm 2015 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24 tháng 9 năm 2013 của Chính phủ.

Nguồn: ​https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/van-ban-chinh-sach-moi.aspx?ItemID=3261

 

FalseNguyễn Thị Linh
Bảo đảm tính thống nhất trong các văn bản pháp luật quy định về xử phạt vi phạm hành chínhThông tinTinBảo đảm tính thống nhất trong các văn bản pháp luật quy định về xử phạt vi phạm hành chính/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
7/21/2020 4:00 PMNoĐã ban hành

​​1. Quan niệm về tính thống nhất trong các văn bản pháp luật quy định xử phạt vi phạm hành chính

Theo Từ điển Tiếng Việt, "thống nhất là làm cho phù hợp với nhau, không mâu thuẫn nhau"[1]. Do đó, xét ở góc độ pháp lý, khi bàn về "tính thống nhất" trong các văn bản pháp luật, chúng tôi cho rằng, "thống nhất" nghĩa là muốn nói đến sự phù hợp, không có sự mâu thuẫn nhau giữa các văn bản pháp luật. Sự phù hợp, không mâu thuẫn giữa các quy định của pháp luật được hiểu với nhiều mức độ: các quy định của văn bản pháp luật có giá trị pháp lý thấp hơn không được trái với quy định của văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao hơn trong cùng một lĩnh vực điều chỉnh; các quy định cùng điều chỉnh một vấn đề trong nhiều văn bản phải phù hợp với nhau...

Có thể nói, "thống nhất" là một trong những tiêu chí để xây dựng và đánh giá chất lượng hệ thống pháp luật vì Nhà nước quản lý xã hội bằng công cụ pháp luật. Khi những quy định này mâu thuẫn, chồng chéo nhau thì việc áp dụng, thực thi pháp luật sẽ không hiệu quả, có thể dẫn đến sự mất niềm tin và rối loạn trong xã hội. Do đó, sau một thời gian áp dụng pháp luật, việc đánh giá các quy định trong tất cả các văn bản điều chỉnh một lĩnh vực, ngành nào đó là cơ sở để hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật hướng đến sự thống nhất.

2. Những yếu tố bảo đảm tính thống nhất trong các văn bản pháp luật quy định xử phạt vi phạm hành chính

2.1. Thống nhất về thuật ngữ

Trong công tác xử phạt vi phạm hành chính (XPVPHC), việc hiểu rõ nội hàm của các thuật ngữ pháp lý rất quan trọng, nó giúp cho các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền xử phạt thực hiện đúng quyền hạn và trách nhiệm của mình. Tuy nhiên, một số từ ngữ pháp lý không được Luật Xử lý vi phạm hành chính (XLVPHC) năm 2012 giải thích. Ví dụ, các cụm từ như: "có quy mô lớn; vụ việc đặc biệt nghiêm trọng, có nhiều tình tiết phức tạp; cố tình trốn tránh, trì hoãn; thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh; không còn giá trị sử dụng; bị chiếm đoạt, sử dụng trái phép" quy định tại các Điều 10, 66, 74, 126 Luật XLVPHC năm 2012. Điều này đã  gây khó khăn cho các cơ quan, cá nhân thực thi pháp luật cũng như gây ra sự không đồng tình cho cá nhân, tổ chức bị xử phạt. 

Mặt khác, trong các quy định của pháp luật vẫn còn chưa phân định rõ giữa thuật ngữ "giao quyền" và "ủy quyền". Đây là hai khái niệm được nhắc đến trong trường hợp cấp trưởng chuyển giao quyền của mình cho cấp phó để thực hiện XPVPHC. Theo Luật XLVPHC năm 2012, thuật ngữ "giao quyền" được sử dụng xuyên suốt trong văn bản luật. Tuy nhiên, trong trường hợp người có thẩm quyền XPVPHC là Trưởng công an xã chuyển giao quyền cho cấp phó đã phát sinh một số bất cập.

Theo quy định của khoản 3 Điều 39 Luật XLVPHC năm 2012, Trưởng công an xã có quyền phạt cảnh cáo, phạt tiền nhưng không quá 2.500.000 đồng và các hình thức xử phạt khác,... Bên cạnh đó, Trưởng công an xã cũng có thể giao quyền XPVPHC cho cấp phó[2]. Nghị định số 81/2013/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật XLVPHC cũng nêu rõ việc giao quyền phải được thực hiện bằng "văn bản"[3]. Như vậy, Phó Trưởng công an xã có thẩm quyền XPVPHC theo cơ chế nhận quyền được giao từ cấp Trưởng. Bên cạnh đó, khoản 3 Điều 54 của Luật XLVPHC năm 2012 cũng quy định: "Người được giao quyền không được giao quyền, ủy quyền cho bất kỳ người nào khác". Trong khi đó, Điều 12 Pháp lệnh Công an xã năm 2008 quy định "… khi Trưởng công an xã vắng mặt thì Phó Trưởng công an xã được Trưởng công an xã ủy quyền thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Trưởng công an xã" và theo Dự thảo Luật Công an xã năm 2016 (nguồn ?) tại Điều 17 cũng quy định như Pháp lệnh Công an xã năm 2008 là "ủy quyền" chứ không phải là "giao quyền". Như vậy, cùng một vấn đề về phân cấp giữa cấp trên và cấp dưới nhưng các văn bản pháp luật lại thiếu sự thống nhất trong việc sử dụng thuật ngữ pháp lý và cũng chưa có văn bản pháp luật quy định một cách đầy đủ về thuật ngữ pháp lý "giao quyền" và "ủy quyền", ngay cả Luật XLVPHC năm 2012 có đề cập đến cả hai thuật ngữ "giao quyền" (Điều 54) và "ủy quyền" (Điều 51, 54, 87, 123) nhưng Luật cũng chưa giải thích rõ[4].

2.2. Thống nhất về thứ bậc pháp lý

Tính thống nhất của hệ thống pháp luật về XPVPHC phải được xem xét trên cả hai mặt: hình thức và nội dung.

Thứ nhất, về mặt hình thức, tính thống nhất của pháp luật về XPVPHC phải thể hiện đúng hình thức của nó. Hình thức của nó không chỉ thể hiện dưới dạng một tên gọi nhất định mà nó còn phải được phân loại theo thứ, bậc, cách sắp xếp cấu trúc của văn bản như: chương, mục, điều, khoản,... Sự thống nhất về mặt hình thức còn phải căn cứ vào hiệu lực của văn bản, văn bản sau phải thống nhất với văn bản trước. Cùng là các văn bản điều chỉnh về một loại hành vi, một loại quan hệ pháp luật trong lĩnh vực XPVPHC, nhưng các quy định của Luật XLVPHC phải có giá trị pháp lý cao hơn những quy định được chứa đựng trong các nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành. Như vậy, về hình thức, tính thống nhất của văn bản hướng dẫn, ngoài việc phải đáp ứng các yêu cầu trên thì hình thức của văn bản hướng dẫn phải thống nhất với hình thức cấu trúc của chính văn bản đang cần được hướng dẫn và bảo đảm văn bản hướng dẫn phải theo trình tự thống nhất với toàn bộ văn bản khác cùng cấp trong hệ thống pháp luật. Một thực tế là giữa các nghị định của Chính phủ về XPVPHC chưa thống nhất, đồng bộ với Luật XLVPHC về cách xác định đối tượng bị xử phạt. Có nghị định quy định mức xử phạt áp dụng đối với cá nhân, có nghị định quy định mức xử phạt áp dụng đối với tổ chức, có nghị định lại không quy định, có nghị định quy định xử phạt cá nhân và tổ chức trong cùng một điều, gây khó khăn cho người có thẩm quyền áp dụng. Chẳng hạn, Nghị định số 139/2017/NĐ-CP quy định mức phạt tiền là mức phạt áp dụng đối với tổ chức (trừ mức phạt quy định tại một số điều là mức phạt áp dụng đối với cá nhân). Đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính thì mức phạt tiền đối với cá nhân bằng 1/2 mức phạt tiền đối với tổ chức. Trong khi đó, Nghị định số 33/2017/NĐ-CP quy định mức phạt tiền đối với mỗi hành vi vi phạm hành chính quy định tại Chương II và Chương III là mức phạt đối với cá nhân, trừ quy định tại điểm d khoản 2 Điều 34 Nghị định, mức phạt đối với hộ kinh doanh áp dụng như đối với mức phạt của cá nhân, mức phạt tiền đối với tổ chức gấp 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân…

 Thứ hai, về mặt nội dung, tiêu chí thống nhất giá trị pháp lý của văn bản hướng dẫn XPVPHC phải bao quát các quan hệ xã hội nhằm điều chỉnh thống nhất một hành vi. Nói cách khác, những nội dung của văn bản hướng dẫn sau phải bảo đảm sự nhất quán, không có sự xung đột giữa nội dung các văn bản hướng dẫn trước đó, và các văn bản này phải thống nhất với nhau. Sự nhất quán, thống nhất này là rất cần thiết nhằm tránh tình trạng cùng một lĩnh vực, một hành vi, văn bản luật thì cho phép nhưng văn bản hướng dẫn thi hành luật thì lại không cho phép, hoặc văn bản hướng dẫn quy định một mức xử phạt khác với luật. Mặt khác, ngay cả hình thức thể hiện trên văn bản, biểu mẫu trong quá trình xử phạt vi phạm hành chính cũng cần được quy định thống nhất. Ví dụ: trước đây, Nghị định số 81/2013/NĐ-CP và Thông tư số 01/2011/TT-BNV đã có hướng dẫn khác nhau về cách ghi chủ thể ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Điều này vô tình gây khó cho các cơ quan hành chính nhà nước trong việc ban hành các quyết định xử phạt vi phạm hành chính.

2.3. Thống nhất về thẩm quyền

Luật XLVPHC năm 2012 quy định nhiều chức danh có thẩm quyền XPVPHC nhằm đảm bảo tính toàn diện, kịp thời trong công tác quản lý nhà nước theo đặc thù của vi phạm hành chính. Bởi lẽ, vi phạm hành chính xảy ra ở hầu hết tất cả các lĩnh vực, ngành, nghề và là một trong những hành vi mang tính phổ biến trong đời sống xã hội. Mặc dù mang ý nghĩa tích cực nhưng các quy định về thẩm quyền XPVPHC cũng gặp một số bất cập sau:

Thứ nhất, về cơ chế xác định trách nhiệm, cơ chế giải quyết bồi thường thiệt hại trong trường hợp Phó Trưởng công an xã được giao quyền XPVPHC gây ra thiệt hại. Theo điểm a khoản 3 Điều 61 Luật Cán bộ, công chức năm 2008, Trưởng công an xã là công chức, Phó Trưởng công an xã không phải là cán bộ hay công chức (cũng không phải là viên chức). Vậy, việc một công chức giao quyền XPVPHC cho một người không phải là cán bộ hay công chức thì có phải là ngoại lệ không? Đặc biệt, nếu trường hợp Phó Trưởng công an xã sai sót trong việc XPVPHC thì giải quyết ra sao? Thủ tục như thế nào?

Có thể thấy, quy định "giao quyền" hay "ủy quyền" XPVPHC cho Phó Trưởng công an xã là rất cần thiết, đáp ứng được nhu cầu của địa phương. Tuy nhiên, do chức danh Phó trưởng Công an xã không phải là "công chức", nên việc giải quyết bồi thường khi Phó trưởng công an xã ra quyết định xử phạt sai sẽ vướng nhiều quy định khác có liên quan. Vì vậy, một mặt, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung quy định của Pháp lệnh Công an xã, Luật XLVPHC, bảo đảm sự thống nhất; mặt khác, cần cân nhắc việc chính quy hóa chức danh Phó Trưởng công an xã là công chức để đảm bảo cơ chế xử lý trách nhiệm bồi thường, giải quyết các vướng mắc đã nêu.

Thứ hai, thiếu hướng dẫn cụ thể để xác định thẩm quyền. Ví dụ, quy định của Luật XLVPHC năm 2012 về thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong việc XPVPHC và áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả chưa được hướng dẫn cụ thể về khung phạt và biện pháp khắc phục hậu quả.

Thứ ba, sự thay đổi tên gọi của một số chức danh có thẩm quyền XPVPHC theo văn bản luật chuyên ngành dẫn đến sự không tương thích về quy định giữa Luật XLVPHC năm 2012 và các văn bản này. Theo đó, những người có chức danh thay đổi về tên gọi mặc nhiên sẽ không còn thẩm quyền XPVPHC mặc dù người đó vẫn giữ vị trí và thực hiện nhiệm vụ tương ứng với chức danh cũ. Ví dụ, theo quy định tại Điều 48 Luật XLVPHC năm 2012, Chánh tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao có thẩm quyền XPVPHC. Tuy nhiên, theo Điều 3 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, chức danh này không còn tồn tại mà thay vào đó là chức danh Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao.

Do đó, cần rà soát, tổng hợp lại những chức danh có thẩm quyền XPVPHC đã có sự thay đổi trong tất cả các văn bản luật chuyên ngành để sửa đổi, bổ sung Luật XLVPHC cho phù hợp, đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống pháp luật.

2.4. Thống nhất về việc xử phạt hành vi vi phạm

Luật XLVPHC năm 2012 ra đời là cơ sở để các cơ quan nhà nước xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm hành chính. Các văn bản hướng dẫn cụ thể hóa hành vi vi phạm cùng các chế tài trong mọi mặt đời sống xã hội, góp phần tích cực trong công cuộc phòng, chống vi phạm hành chính. Tuy nhiên, hệ thống các văn bản hướng dẫn về XPVPHC vẫn còn một số bất cập sau:

Thứ nhất, một số quy định về XPVPHC chưa tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi dẫn đến mức xử phạt thấp, không đủ sức răn đe.

Theo quy định của điểm c khoản 2 Điều 2 Luật XLVPHC năm 2012, hình thức và mức xử phạt phải đảm bảo mức độ được giáo dục, răn đe và tính hợp lý, tính khả thi của việc áp dụng hình thức, mức phạt. Trên thực tế, nhiều vụ việc vi phạm mang tính chất nguy hiểm, không chỉ gây thiệt hại trực tiếp đến người bị vi phạm mà còn gây hoang mang và bức xúc trong dư luận xã hội, điển hình như các vụ việc XPVPHC trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội với mức phạt tiền 200.000 đồng theo khoản 1 Điều 5 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP quy định XPVPHC trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng chống cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình: Vụ đối tượng "cưỡng hôn" phụ nữ trong thang máy chung cư ở quận Thanh Xuân (Hà Nội)[5]; Vụ cán bộ công an gây rối tại Cảng hàng không Tân Sơn Nhất với tính chất nghiêm trọng[6]. Các hành vi nêu trên dù chưa được quy định trong Bộ luật Hình sự như: có tính chất quấy rối, tấn công, lạm dụng tình dục, gây hậu quả nặng nề và tổn thương về danh dự, tinh thần lâu dài cho nạn nhân. Do đó, mức xử phạt 200.000 đồng là quá nhẹ, không đủ sức răn đe với người vi phạm, thậm chí tạo nên tiền lệ không tốt trong xã hội.

Do đó, Chính phủ cần rà soát, đánh giá lại về tính chất, mức độ của hành vi vi phạm trong nhóm vi phạm gây rối an ninh, trật tự, an toàn xã hội để xác định hình thức và mức phạt tương xứng, đánh vào đúng bản chất của hành vi vi phạm, đảm bảo mang tính giáo dục và răn đe cao. Ví dụ: Đối tượng vi phạm phải lao động công ích hoặc công khai xin lỗi trên phương tiện thông tin đại chúng (nhưng tên và địa chỉ nạn nhân thì không được nêu ra)… Đặc biệt, cần luật hóa hành vi quấy rối tình dục và có chế tài thỏa đáng để kịp thời giải quyết các vấn đề phát sinh trong thực tiễn.

Thứ hai, việc hướng dẫn áp dụng các quy định về XPVPHC trong các văn bản quy phạm pháp luật còn thiếu hoặc có sự mâu thuẫn giữa các văn bản quy phạm pháp luật với nhau. Cùng điều chỉnh một nhóm hành vi nhưng mức phạt lại khác nhau trong các văn bản hướng dẫn thi hành, cụ thể như sau:

i) Hành vi đổ rác, xả nước nơi công cộng hiện cũng được điều chỉnh trong ba văn bản vẫn còn có hiệu lực thi hành với các mức phạt khác nhau: Nghị định số 46/2016/NĐ-CP quy định về XPVPHC trong lĩnh vực giao thông đường bộ, đường sắt thì phạt tiền từ 300.000-400.000 đồng đối với cá nhân[7]. Trong khi đó, Nghị định số 155/2016/NĐ-CP quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường thì có mức phạt tiền từ 5-7 triệu đồng[8]. Nghị định số 167/2013/NĐ-CP quy định XPVPHC trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng chống bạo lực gia đình thì mức phạt tiền là 1 - 2 triệu đồng[9]. Có thể thấy, mặc dù các văn bản sử dụng từ ngữ khác nhau về hành vi nhưng quy tụ lại chỉ để điều chỉnh hành vi đổ rác, vứt rác thải, không giữ gìn vệ sinh chung nơi công cộng nhưng các văn bản trên không thống nhất về mức xử phạt.

ii) Hành vi đi vệ sinh không đúng nơi quy định: Nghị định số 167/2013/NĐ-CP quy định mức phạt tiền là 100.000 - 300.000 đồng[10]; trong khi đó Nghị định số 155/2016/NĐ-CP lại quy định mức phạt tiền là 1 - 3 triệu đồng[11].

Chúng tôi cho rằng, trong thời gian tới, việc rà soát, sửa đổi các quy định cần được gom gọn lại theo nhóm hành vi, theo đó cùng điều chỉnh trong một Nghị định xử phạt nhưng có thể phân tách theo nhóm hành vi chung và lĩnh vực cụ thể để có mức xử phạt tương ứng, chẳng hạn như nhóm hành vi gây rối trật tự, an toàn xã hội nói chung và trong lĩnh vực hàng không, hàng hải,… nói riêng. Như vậy, các cơ quan thực thi pháp luật cũng dễ dàng áp dụng trong từng vụ việc cụ thể mà không phải lúng túng không biết nên áp dụng văn bản nào. Giải pháp này sẽ giảm bớt số lượng văn bản hướng dẫn XPVPHC hiện nay, giảm bớt sự chồng chéo trong quy định và đặc biệt là cũng phù hợp với kỹ thuật xây dựng Luật XLVPHC năm 2012. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu sửa đổi Luật XLVPHC năm 2012 theo hướng quy định "mức phạt tiền tối đa chung, cụ thể được áp dụng trong mọi trường hợp mà mức phạt tối đa đối với mỗi người được áp dụng tùy thuộc vi phạm hành chính xảy ra trong lĩnh vực nào, vi phạm xảy ra ở địa bàn nào và vi phạm được thực hiện bởi cá nhân hay tổ chức"[12]. 

Nguồn: http://lapphap.vn/Pages/TinTuc/210545/Bao-dam-tinh-thong-nhat-trong-cac-van-ban-phap-luat-quy-dinh-ve-xu-phat-vi-pham-hanh-chinh.html

 

 

FalseNguyễn Thị Linh
Tính răn đe của hình thức phạt tiền trong xử phạt vi phạm hành chínhThông tinTinTính răn đe của hình thức phạt tiền trong xử phạt vi phạm hành chính/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
7/16/2020 1:00 PMNoĐã ban hành

Phạt tiền là hình thức xử phạt được áp dụng phổ biến nhất trong việc xử phạt vi phạm hành chính. Bài viết này phân tích một số khía cạnh lý luận cũng như thực tiễn về tính răn đe của hình thức phạt tiền ở nước ta hiện nay; qua đó, đề xuất một số kiến nghị

1. Khái quát về tính răn đe của hình thức phạt tiền trong xử phạt vi phạm hành chính

Vi phạm hành chính là "hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính". Xử phạt vi phạm hành chính (XPVPHC) là "việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính".

Trong số các hình thức XPVPHC, phạt tiền là hình thức xử phạt được áp dụng phổ biến. Theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính (XLVPHC) hiện hành, mức tiền phạt cụ thể đối với một vi phạm hành chính là mức trung bình của khung tiền phạt được quy định đối với vi phạm hành chính đó (nếu có tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng thì mức tiền phạt có thể giảm xuống hoặc tăng lên tương ứng nhưng không được giảm thấp hơn mức tiền phạt tối thiểu hoặc tăng vượt hơn so với mức tiền phạt tối đa của khung tiền phạt được quy định).

Mức tiền phạt trong XPVPHC phải đảm bảo nhiều yêu cầu khác nhau như: tính thích đáng với hậu quả của vi phạm hành chính gây ra; phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội nói chung cũng như điều kiện về mặt tài chính của từng đối tượng vi phạm cụ thể nói riêng… và một yêu cầu khác cũng quan trọng không kém là phải bảo đảm được tính "răn đe" của chế tài xử phạt; từ đó, nhằm giúp giảm thiểu vi phạm hành chính có thể xảy ra.

Theo nghĩa tiếng Việt, "răn đe" có nghĩa là: "nói cho biết rõ điều tai hại với mục đích ngăn cấm, kèm theo ý đe dọa". Như vậy, sự răn đe có nhiều thuộc tính khác nhau, nhưng thuộc tính cơ bản nhất là tính đe dọa.

Thông thường, "lý thuyết răn đe" hay được nhắc đến nhiều trong lĩnh vực ngoại giao, quân sự và phổ biến hơn cả là ở lĩnh vực tội phạm. Có ý kiến cho rằng, "răn đe được định nghĩa là hiệu quả phòng ngừa mà hình phạt thực tế (hoặc bị đe dọa) của những người phạm tội đối với những người phạm tội tiềm năng". Theo hướng lập luận trên, tính chất răn đe của chế tài chủ yếu hướng vào những người vi phạm tiềm năng với cơ chế phòng ngừa là chủ yếu.

Ý kiến khác cho rằng, trong việc xem xét tính răn đe, điều quan trọng là phải phân biệt giữa răn đe chung và răn đe cụ thể. Trên thực tế, "răn đe chung đề cập đến ảnh hưởng của hậu quả bị đe dọa đối với dân chúng. Răn đe cụ thể đề cập đến ảnh hưởng của hình phạt đối với một người cụ thể gặp phải nó". Răn đe cụ thể là những tác động mang tính thực tế đối với người có hành vi vi phạm, còn răn đe chung chỉ mang tính phòng ngừa, chế ngự khả năng xuất hiện hành vi vi phạm. Hai dạng răn đe này có mối quan hệ đan xen lẫn nhau và hầu như không thể tách rời. Răn đe chung chỉ có thể được củng cố chắc chắn hơn khi răn đe cụ thể được bảo đảm thực thi tốt và ngược lại, khi mà răn đe cụ thể được đảm bảo thực thi nghiêm chỉnh thì mức độ răn đe chung lại càng được mở rộng, củng cố thêm. "Những ảnh hưởng của tính răn đe chung rất khác nhau tùy thuộc vào các yếu tố như: động lực tham gia vào hành vi bị cấm hay tính cách…v.v. Ngoài các biến số chung này, hiệu quả của một hình phạt pháp lý phụ thuộc vào hai yếu tố cơ bản: (1) rủi ro nhận thấy của việc phát hiện, sự e ngại và vấn đề bị kết án; và (2) mức độ nghiêm trọng của hình phạt. Cùng với đó, còn có sự nhất trí giữa các học giả pháp lý khi cho rằng: yếu tố thứ nhất có ý nghĩa hơn trong việc kiểm soát hành vi vi phạm so với yếu tố thứ hai". Ở một góc độ khác, có ý kiến cho rằng, răn đe không chỉ được thúc đẩy bằng sự sợ hãi của hình phạt mà còn có sự lên án của xã hội đối với hành vi bị cấm. Do đó, "răn đe có cả thành phần sợ hãi và thành phần đạo đức (giáo dục)". Nói khác đi và suy cho cùng, nếu một cá nhân được sống trong môi trường giáo dục tốt, các giá trị đạo đức được đề cao thì thông thường cá nhân đó sẽ có xu hướng muốn (và quen) làm việc tốt hơn là việc xấu; đồng thời, do ý thức được hậu quả phải gánh chịu nếu thực hiện hành vi vi phạm mà từ đó cá nhân sẽ e sợ và không (hoặc hạn chế) thực hiện hành vi phạm pháp.

Những lập luận này hoàn toàn có giá trị tham chiếu khi nghiên cứu về tính chất răn đe của việc XPVPHC nói chung và hình thức phạt tiền nói riêng. Ở Việt Nam hiện nay, việc nghiên cứu đầy đủ và cơ bản về tính răn đe của hình thức phạt tiền trong XPVPHC ít được nhắc đến, trên diễn đàn khoa học pháp lý cũng ít đề cập đến vấn đề này. Tính chất răn đe của hình thức phạt tiền chỉ được trao đổi và bàn luận nhiều khi có một sự việc nào đó phát sinh mang tính nổi cộm, thì vấn đề này mới được chú ý đến nhiều hơn…

Cũng giống như các hình thức xử phạt khác, phạt tiền nhằm góp phần vào việc duy trì trật tự, kỷ cương, nâng cao tinh thần thượng tôn pháp luật trong xã hội, thông qua cơ chế gây ảnh hưởng đến lợi ích của cá nhân, tổ chức vi phạm; vì thực chất, "phạt tiền là sự tác động vào lợi ích của người vi phạm".

Tuy nhiên, ở một chừng mực nào đó, phạt tiền không chỉ tác động đến lợi ích (kinh tế) của người vi phạm mà còn có tác động đến yếu tố tinh thần, nhận thức của người vi phạm; khi mà hành vi không tốt, sai trái bị xã hội, cộng đồng phê phán.

Mặc dù phạt tiền chủ yếu nhằm tác động đến cá nhân, tổ chức để các chủ thể này không thực hiện hành vi vi phạm; với mức độ nghiêm khắc của chế tài thấp hơn các chế tài hình sự. Tuy nhiên, không vì thế mà tính chất răn đe của hình thức phạt tiền bị xem nhẹ. Bởi lẽ, nếu thiếu đi tiêu chí này thì việc phạt tiền trong rất nhiều trường hợp sẽ không còn nhiều ý nghĩa.Nói chính xác hơn,mục đích chính của việc phạt tiền là tạo lập khả năng tránh tái diễn hành vi vi phạm của cá nhân, tổ chức và hàm ý không khuyến khích cá nhân, tổ chức khác thực hiện hành vi tương tự, với cơ chế thúc đẩy tâm lý "sợ bị phạt"; tâm lý đó sẽ làm cho các cá nhân kiểm soát tốt hành vi của mình cũng như đưa ra những lựa chọn thực hiện hành vi hợp pháp hoặc thậm chí là cá nhân có thể vẫn cố tình thực hiện hành vi nhưng sẽ có sự cân nhắc, tiết chế nhằm giảm thiểu mức độ sai phạm; nhờ đó mà nâng cao tính tuân thủ pháp luật tốt hơn.

Về cơ bản, có hai yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến tính răn đe của hình thức phạt tiền, và cả hai yếu tố này đều ảnh hưởng trực tiếp đến việc lựa chọn thực hiện hành vi của cá nhân, đó là sự chắc chắn của việc xử phạt và mức tiền phạt. Nhưng vấn đề đặt ra là sự chắc chắn của việc xử phạt và mức tiền phạt, yếu tố nào sẽ mang tính chất quyết định đến việc lựa chọn thực hiện hành vi của cá nhân? Yếu tố nào sẽ đảm bảo tính răn đe của hình thức phạt tiền có tính trội hơn. Đây là vấn đề còn rất nhiều tranh cãi, phần lớn các ý kiến cho rằng mức tiền phạt có phần trội hơn so với yếu tố chắc chắn của việc xử phạt. Trong khi đó, cũng có một số ý kiến đánh giá có sự ngang bằng nhau giữa hai yếu tố này. Tuy nhiên, theo chúng tôi, mức tiền phạt nghiêm khắc sẽ có tính răn đe cao đối với đa phần các trường hợp hơn. Bởi lẽ, sự chắc chắn của việc xử phạt chỉ bị cản trở, bị "méo mó" đi trong một số những trường hợp nhất định mà thôi (chiếm tỷ lệ nhỏ, thứ yếu).

Việc đánh giá tính chất và mức độ của sự răn đe theo mức tiền phạt là một vấn đề không hề đơn giản; việc đánh giá này chủ yếu chỉ mang tính định tính, ước đoán. Vì tác động từ sự răn đe của hình thức phạt tiền còn tùy thuộc vào mỗi cá nhân, tổ chức khác nhau ở từng thời điểm, vụ việc khác nhau. Dẫu vậy, xét trong nhiều trường hợp cụ thể, sẽ thấy rằng mức tiền phạt có thể thiếu hụt hoặc cũng có thể vượt quá "mức răn đe cần thiết". Có nhiều lý do dẫn đến tình trạng này, chủ yếu là do các quan hệ xã hội, điều kiện kinh tế, mức sống, thu nhập của người dân không ngừng thay đổi, cho nên, mức tiền phạt đối với nhiều hành vi vi phạm đôi khi không còn phù hợp trên thực tế.

Đồng thời, một điểm quan trọng khác cũng cần được quan tâm, đó là tính chất răn đe của hình thức phạt tiền còn phụ thuộc vào "năng lực phản chiếu" của từng cá nhân trước hành vi vi phạm (trừ trường hợp cá nhân vô ý hoặc không ý thức được hành vi mà mình thực hiện là hành vi vi phạm). Mức độ phản chiếu này của từng cá nhân sẽ quyết định phần lớn đến việc tự ngăn chặn khả năng bị kích thích, thu hút thực hiện hành vi vi phạm. Nếu cá nhân có năng lực phản chiếu càng tốt thì khả năng xảy ra hành vi vi phạm càng thấp và ngược lại. Năng lực phản chiếu này lại phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố thành phần cụ thể hơn như  kiến thức pháp luật của cá nhân.

Từ những phân tích trên, có thể đưa ra nhận định về mức độ tương quan giữa mức tiền phạt và tính răn đe của hình thức phạt tiền như sau:nếu mức tiền phạt quá thấp thì khả năng xảy ra vi phạm càng nhiều; chỉ khi mức tiền phạt tương xứng với mức độ vi phạm thì tính răn đe càng cao; điều đó càng giúp làm giảm khả năng tái diễn và xảy ra hành vi vi phạm mới; giúp cho Nhà nước giảm thiểu chi phí, thời gian xử lý các vụ việc; nhưng ngược lại, mức tiền phạt quá cao thì nó sẽ khó có tính khả thi trên thực tế. Điều đó đòi hỏi mức tiền phạt phải được cân nhắc, điều chỉnh cho phù hợp với từng thời điểm, giai đoạn và tương ứng với từng nhóm đối tượng khác nhau.

Theo chúng tôi, tính răn đe của hình thức phạt tiền chỉ được đảm bảo khi:

Thứ nhất, mức tiền phạt đối với những vi phạm hành chính, nhất là vi phạm hành chính phổ biến cần phải được truyền tải đến đông đảo cá nhân, tổ chức trong xã hội; phải gây ảnh hưởng và tạo được suy nghĩ cho người dân rằng: nếu thực hiện vi phạm hành chính đó thì sẽ bị thiệt nhiều hơn là được lợi;

Thứ hai, mức tiền phạt phải đủ "mạnh" với đa số các cá nhân, tổ chức vi phạm; tạo được sự đồng thuận cao trong xã hội tại một thời điểm nhất định;

Thứ ba, tính răn đe của hình thức phạt tiền chỉ được củng cố tốt hơn khi vi phạm hành chính được phát hiện, ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm minh, công bằng.

2. Một số nhận định về tính răn đe của hình thức phạt tiền trong xử phạt vi phạm hành chính

Hiện nay, theo quy định của Luật XLVPHC năm 2012, khung tiền phạt từ 50.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng đối với cá nhân, từ 100.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng đối với tổ chức. Mức phạt cụ thể chủ yếu được quy định trong các nghị định theo từng ngành, lĩnh vực riêng biệt. Riêng ở cấp địa phương cũng có trường hợp chính quyền cấp tỉnh đã ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật về XPVPHC trên địa bàn, trong đó có quy định chi tiết về mức tiền phạt cụ thể theo lĩnh vực quản lý. Đơn cử như: Nghị quyết số 07/2014/NQ-HĐND ngày 11/7/2014 của Hội đồng Nhân dân thành phố Hà Nội về mức tiền phạt đối với một số hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng và Nghị quyết số 08/2014/NQ- HĐND ngày 11/7/2014 quy định về mức tiền phạt đối với một số hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa.

Trong khoảng 04 năm qua, trên địa bàn cả nước đã phát hiện: 36.789.227 vụ việc vi phạm hành chính, tổng số vụ việc đã xử phạt là 28.493.927 vụ việc (chiếm 77.45% số vụ vi phạm), tổng tiền phạt thu được là 38.543.430.058.702 đồng. Đáng lưu ý, có một số lĩnh vực có số lượng vi phạm hành chính rất lớn, đơn cử như lĩnh vực giao thông. Theo một số liệu thống kê cho thấy: tính trong hai năm kể từ khi triển khai thực hiện Nghị định số 46/2016/NĐ-CP về XPVPHC trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt, lực lượng Công an đã xử lý trong lĩnh vực đường bộ hơn 7,87 triệu trường hợp vi phạm, phạt tiền hơn 4.618 tỷ đồng; tước hơn 589.738 giấy phép lái xe, tạm giữ hơn 939.116 phương tiện. Trong lĩnh vực đường sắt đã xử phạt hơn 2.928 trường hợp vi phạm, phạt tiền hơn 1,6 tỷ đồng. Thực tế cho thấy, hình thức xử phạt bằng tiền đã góp phần quan trọng vào việc duy trì kỷ cương, trật tự, an toàn xã hội.

Tuy nhiên, cũng phần nào giống như giai đoạn trước đây, "do đa dạng về hành vi vi phạm và đối tượng vi phạm nên việc các nghị định về XPVPHC quy định cách thức định lượng mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm trong nhiều trường hợp, lĩnh vực không thống nhất và không phù hợp. Điều này tạo ra sự khó khăn khi xác định mức phạt tiền phù hợp với mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm để đảm bảo tính răn đe, nghiêm minh và công bằng của pháp luật". Nên trong thời điểm hiện nay, đây vẫn chính là một "nút thắt" cần tháo gỡ.

Cụ thể: mức phạt tiền hiện nay đối với một số hành vi vi phạm còn quá thấp, tình trạng này dẫn đến tâm thế "khẩn trương nộp phạt", cũng như tâm lý "nhờn luật" vì thế mà tăng cao, gây bức xúc trong dư luận. Điển hình như: nếu cá nhân có cử chỉ, lời nói trêu ghẹo, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác thì chỉ có thể sẽ bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng (theo quy định tại Điều 5 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP của Chính phủ, quy định XPVPHC trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình); hay như: mức xử phạt đối với một số hành vi vi phạm pháp luật nghĩa vụ quân sự đã khá lạc hậu. Hiện mức phạt tối đa đối với hành vi "không chấp hành lệnh nhập ngũ" hiện nay là 2,5 triệu đồng. Có trường hợp không chấp hành lệnh khám sức khỏe 03 năm liên tục nhưng chỉ bị phạt tổng cộng 3,4 triệu đồng. Với mức tiền phạt thấp như ở một số lĩnh vực vừa dẫn chứng trên, rất khó để những cá nhân, tổ chức vi phạm sẽ "e dè" trong việc tái diễn hành vi vi phạm tương tự của mình. 

Trái ngược với mức xử phạt thấp, một số trường hợp vi phạm hành chính hiện nay bị xử lý với mức phạt quá cao. Chẳng hạn: "nhiều người vi phạm luật giao thông bị bắt nộp phạt cao thì mới được lấy lại phương tiện, nên đã chấp nhận bỏ phương tiện để không phải nộp phạt. Nhà nước vừa không thu được tiền phạt, còn phải chi phí cho việc tạm giữ một lượng lớn phương tiện".

Gần đây, trong Dự thảo Nghị định quy định XPVPHC trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã, cụ thể là tại "điểm e khoản 1 Điều 15 của Dự thảo quy định về mức phạt tiền đối với hành vi "không đeo thẻ công chứng viên khi hành nghề công chứng" với mức phạt từ 3.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng. Đây là mức phạt tiền khá nặng đối với hành vi vi phạm tác động đến lợi ích công cộng khá thấp"[16]. Nói cách khác, mức tiền phạt trong trường hợp này đã có dấu hiệu "vượt quá mức răn đe cần thiết" nếu được áp dụng trên thực tế.

Một vấn đề nữa cũng đáng lưu tâm là cách thức phạt tiền. Hiện nay, các cơ quan chức năng đang áp dụng hai cách thức phạt tiền đối với vi phạm hành chính là "phạt nóng" và "phạt nguội" (chủ yếu đối với lĩnh vực giao thông). Nhưng xét về mặt tâm lý, việc "phạt nóng" đa phần sẽ có tính răn đe cao hơn so với cách thức "phạt nguội". Tuy nhiên, có một nghịch lý kèm theo đó là "phạt nguội", nhờ sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật thường có tính chuẩn xác cao hơn là "phạt nóng".

Song song đó, trong quá trình tiến hành XPVPHC bằng hình thức phạt tiền, có trường hợp người thi hành công vụ không thực hiện đúng theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục, dễ dãi cho qua hoặc nhận hối lộ… làm giảm tính nghiêm minh của pháp luật. Đặc biệt là việc đưa ra mức tiền phạt khi có tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng còn mang tính tùy nghi cao[17]. Từ đó, phần nào ảnh hưởng đến tính răn đe của hình thức phạt tiền.

3. Kiến nghị

Để bảo đảm tăng cường tính "răn đe" của chế tài xử phạt vi phạm hành chính, góp phần giảm thiểu vi phạm hành chính có thể xảy ra, chúng tôi đề xuất một số kiến nghị sau:

Một là, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Việc tuyên truyền phải làm cho đối tượng cảm nhận được "cảm giác sai trái" và sự e ngại các thiệt hại về kinh tế nếu thực hiện hành vi vi phạm; ưu tiên tuyên truyền pháp luật về XPVPHC theo từng nhóm ngành, lĩnh vực có số lượng vụ việc vi phạm hành chính cao, phổ biến. Hình thức tuyên truyền cần đảm bảo tính hiệu quả, thiết thực, có trọng tâm. Cùng với đó, chúng ta cần nâng cao tính minh bạch, tăng cường trách nhiệm, đạo đức thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức trong quá trình XPVPHC. Bởi khi cán bộ, công chức thực thi pháp luật nghiêm minh thì tính chất răn đe của hình thức phạt tiền sẽ ngày càng được đảm bảo tốt hơn.

Hai là, nghiên cứu, rà soát, cân nhắc lại mức phạt tiền với mức độ nặng/nhẹ tùy vào từng hành vi vi phạm cụ thể. Thiết nghĩ, cần đánh giá một cách tổng thể sự phù hợp của mức tiền phạt tối đa và tối thiểu trong các lĩnh vực với tình hình thực tiễn của đời sống kinh tế - xã hội. Qua đó, xem xét mức tiền phạt trong lĩnh vực nào cần tăng lên, lĩnh vực nào cần giảm xuống. Đặc biệt, như đã đề cập, đối với trường hợp "nhờn luật" thì mức phạt tối đa vẫn khó có thể đảm bảo tính răn đe đối với người vi phạm. Trong những trường hợp này, cần có cách thức giải quyết phù hợp và thích đáng hơn. Chẳng hạn, người thi hành công vụ, cơ quan công quyền cần phải có đầy đủ thông tin của người vi phạm; từ đó, có thể tính toán lại mức tiền phạt theo cách "tích lũy điểm phạt"; hoặc nhân theo "hệ số vi phạm" (tính theo số lần vi phạm) hay căn cứ vào "lịch sử vi phạm hành chính" để đưa ra mức tiền phạt nặng hơn.

Ba là, việc xử phạt đối với những hành vi vi phạm đã bị xử lý nhiều lần (như vượt đèn đỏ, chạy quá tốc độ cho phép…), ngoài phương án tăng mức tiền phạt thì cũng cần phải tăng mức xử phạt bổ sung thậm chí nên thay đổi hình thức phạt tiền bằng hình thức xử phạt khác. Nói cách khác là "nên nghiên cứu để không áp dụng duy nhất hình thức phạt tiền đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính"[18]. Đơn cử như có thể áp dụng biện pháp xử phạt "lao động công ích". Tuy nhiên, nếu tái áp dụng hình thức này, cần phải giải quyết được những vấn đề then chốt nhất đặt ra như: lao động công ích là những công việc gì? thời gian cụ thể ra sao?; kèm theo đó, cơ chế giám sát, đánh giá kết quả phải đơn giản, dễ thực hiện, tránh làm phát sinh chi phí, tốn kém. Đồng thời, cũng rất cần thiết phải có cơ chế bảo vệ người vi phạm, nhằm tránh khả năng xâm phạm đến quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân./.

Nguồn: http://quochoi.vn/tintuc/Pages/tin-hoat-dong-cua-quoc hoi.aspx?ItemID=44249

FalseNguyễn Thị Linh
Xử phạt VPHC trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xãThông tinTinXử phạt VPHC trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
7/16/2020 12:00 PMYesĐã ban hành

Ngày 24/9/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 110/2013/NĐ-CP quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã và được sửa đổi, bổ sung một số điều tại Nghị định số 67/2015/NĐ-CP ngày 14/8/2015 (gọi tắt là Nghị định 110). Nghị định 110 đã đặt ra những cơ sở pháp lý quan trọng để quản lý thống nhất công tác xử phạt VPHC trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã trong phạm vi toàn quốc.

Qua thực tiễn thi hành Nghị định 110 cho thấy, Nghị định đã góp phần trong việc duy trì, tăng cường trật tự, kỷ cương hành chính trong quản lý nhà nước về lĩnh vực tư pháp, nhằm phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời những hành vi VPHC trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã trong phạm vi toàn quốc.

Tuy nhiên, hiện nay, một số văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở pháp lý để ban hành Nghị định 110 đã có nhiều sự thay đổi, có văn bản đã được ban hành mới, có văn bản được sửa đổi, bổ sung, dẫn đến nhiều quy định về xử phạt VPHC trong Nghị định không còn phù hợp, cần phải sửa đổi, bổ sung.

Để bảo đảm hiệu lực thi hành của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước,  Luật Trợ giúp pháp lý đồng thời, để bảo đảm sự phù hợp của các quy định pháp luật thì việc nghiên cứu, xây dựng và ban hành Nghị định thay thế Nghị định số 110/2013/NĐ-CP là cần thiết để bảo đảm cơ sở pháp lý và chế tài xử phạt khi có hành vi vi phạm xảy ra.

Bên cạnh đó, tình hình vi phạm pháp luật trong các lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự ngày càng gia tăng cả về tính chất, mức độ phức tạp. Quy định pháp luật về các lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự chưa rõ ràng, chế tài xử phạt vi phạm hành chính đối với các lĩnh vực trên chưa nghiêm, mức xử phạt VPHC quá thấp, các chế tài về thu hồi Giấy phép hoạt động, cấm hoạt động, tạm dừng, tạm đình chỉ hoạt động đối với các đơn vị được thanh tra còn ít, chưa áp dụng được nhiều. Nhiều hành vi vi phạm pháp luật trong các lĩnh vực được thanh tra như luật sư, công chứng, đấu giá tài sản... chưa có chế tài xử phạt hoặc biện pháp xử phạt chưa tương xứng, nên tạo ra tâm lý coi thường pháp luật, coi thường sự quản lý nhà nước.

Do đó, ngày 15/7/2020, Chính phủ ban hành Nghị định số 82/2020/NĐ-CP quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Nghị định này quy định phạm vi điều chỉnh gồm:

1. Về hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với hành vi vi phạm hành chính, thẩm quyền lập biên bản, thẩm quyền xử phạt, mức phạt tiền cụ thể theo từng chức danh đối với hành vi vi phạm hành chính trong các lĩnh vực sau đây:

a) Bổ trợ tư pháp, bao gồm: luật sư; tư vấn pháp luật; công chứng; giám định tư pháp; đấu giá tài sản; trọng tài thương mại; hòa giải thương mại; thừa phát lại;

b) Hành chính tư pháp, bao gồm: hộ tịch; quốc tịch; chứng thực; lý lịch tư pháp; phổ biến, giáo dục pháp luật; hợp tác quốc tế về pháp luật; trợ giúp pháp lý; đăng ký biện pháp bảo đảm; trách nhiệm bồi thường của Nhà nước;

c) Hôn nhân và gia đình;

d) Thi hành án dân sự;

đ) Phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.

2. Các vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã không quy định tại Nghị định này thì áp dụng theo quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước có liên quan.

Ngoài ra Nghị định còn quy định đối tượng bị xử phạt gồm:

1. Cá nhân, tổ chức Việt Nam; cá nhân, tổ chức nước ngoài (sau đây gọi là cá nhân, tổ chức) có hành vi vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quy định tại khoản 1 Điều 1 Nghị định này.

2. Tổ chức là đối tượng bị xử phạt theo quy định của Nghị định này, bao gồm:

a) Tổ chức hành nghề luật sư; tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư; tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam; trung tâm tư vấn pháp luật, chi nhánh của trung tâm tư vấn pháp luật; tổ chức hành nghề công chứng; tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công chứng viên; văn phòng giám định tư pháp; tổ chức đấu giá tài sản; tổ chức mà nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ do Chính phủ thành lập để xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng; tổ chức có tài sản đấu giá; trung tâm trọng tài; chi nhánh, văn phòng đại diện của trung tâm trọng tài; chi nhánh, văn phòng đại diện của tổ chức trọng tài nước ngoài tại Việt Nam; trung tâm hòa giải thương mại; chi nhánh, văn phòng đại diện của trung tâm hòa giải thương mại; tổ chức hòa giải thương mại nước ngoài tại Việt Nam; văn phòng thừa phát lại; doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản;

b) Trung tâm tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài; văn phòng con nuôi nước ngoài tại Việt Nam; tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý;

c) Doanh nghiệp, hợp tác xã tiến hành thủ tục phá sản; ngân hàng nơi doanh nghiệp, hợp tác xã có tài khoản;

d) Cơ quan, tổ chức thực hiện hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật với cơ quan chính phủ, tổ chức quốc tế liên chính phủ và tổ chức phi chính phủ nước ngoài;

đ) Cơ quan nhà nước có hành vi vi phạm mà hành vi đó không thuộc nhiệm vụ quản lý nhà nước được giao;

Quy định về mức phạt tiền, thẩm quyền phạt tiền đối với cá nhân, tổ chức

1. Mức phạt tiền tối đa đối với cá nhân trong các lĩnh vực: hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình là 30.000.000 đồng.

2. Mức phạt tiền tối đa đối với cá nhân trong các lĩnh vực: thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã là 40.000.000 đồng.

3. Mức phạt tiền tối đa đối với cá nhân trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp là 50.000.000 đồng.

Ngoài ra Nghị định còn quy định một số nội dung khác như quy định xử phạt hành chính, hình thức xử phạt, mức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả trong các lĩnh vực như: bổ trợ tư pháp; hoạt động giám định tư pháp; hoạt động đấu giá tài sản; trọng tài thương mại; hòa giải thương mại…với các quy định pháp luật nổi bật, đơn cử như:

Phạt tiền từ 01 – 03 triệu đồng đối với một trong các hành vi sau: Không tham gia hoặc tham gia không đầy đủ nghĩa vụ bồi dưỡng bắt buộc về chuyên môn, nghiệp vụ; Thông báo không đúng thời hạn cho Đoàn luật sư về việc đăng ký hành nghề, thay đổi nội dung đăng ký hành nghề;

Phạt tiền từ 20 – 30 triệu đồng đối với hành vi hành nghề luật sư khi chưa có chứng chỉ hành nghề luật sư hoặc chưa gia nhập Đoàn luật sư; Cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng hoặc treo biển hiệu khi tổ chức hành nghề luật sư do mình thành lập hoặc tham gia thành lập chưa được đăng ký hoạt động;

Phạt tiền từ 30 – 40 triệu đồng đối với người hành nghề luật sư có hành vi cung cấp hoặc hướng dẫn khách hàng cung cấp tài liệu, vật chứng giả, sai sự thật; Xúi giục khách hàng khai sai sự thật hoặc xúi giục khách hàng khiếu nại, tố cáo trái pháp luật;…Đáng chú ý, tước quyền sử dụng chứng chỉ hành nghề luật sư hoặc giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam từ 06 – 09 tháng;

Phạt tiền từ 03 - 05 triệu đồng đối với hành vi cản trở kết hôn, yêu sách của cải trong kết hôn hoặc cản trở ly hôn (Trước đây Nghị định 110/2013/NĐ-CP không quy định phạt đối với hành vi này; Nghị định 167/2013 quy định phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 - 300.000 đồng nếu cản trở người khác kết hôn bằng cách đưa ra yêu sách của cải hoặc bằng thủ đoạn khác);

Các hành vi vi phạm quy định liên quan đến công chứng hợp đồng:

Phạt tiền từ 07 - 10 triệu đồng đối với hành vi: Tẩy xoá, sửa chữa làm sai lệch nội dung giấy tờ, văn bản để được công chứng hợp đồng ; Sử dụng giấy tờ, văn bản do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền cấp bị tẩy xoá, sửa chữa làm sai lệch nội dung để được công chứng hợp đồng (Hiện hành theo Nghị định 67/2015/NĐ-CP, phạt từ 01 - 03 triệu đồng);

Phạt tiền từ 20 – 30 triệu đồng đối với hành vi: Giả mạo, thuê hoặc nhờ người khác giả mạo người yêu cầu công chứng; giả mạo, thuê hoặc nhờ người khác giả mạo người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến hợp đồng để công chứng hợp đồng, giao dịch; giả mạo chữ ký của người yêu cầu công chứng; Yêu cầu công chứng hợp đồng giả tạo; Cung cấp thông tin, tài liệu sai sự thật để công chứng hợp đồng (hiện hành phạt từ 03 - 07 triệu đồng);  Cản trở hoạt động công chứng. 

Nghị định này có hiệu lực từ ngày 01/9/2020, thay thế Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24 tháng 9 năm 2013 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã và Nghị định số 67/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 5 năm 2015 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24 tháng 9 năm 2013 của Chính phủ.

​Linh Nguyễn

 

 

 

 

FalseNguyễn Thị Linh
Hội thảo đánh giá thực trạng thi hành quyết định xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường trên địa bàn tỉnh Bình DươngTin ngành tư phápTinHội thảo đánh giá thực trạng thi hành quyết định xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường trên địa bàn tỉnh Bình Dương/XLVPHCTDTHPL/PublishingImages/2020-07/HT 1_Key_13072020084319.jpg
7/13/2020 9:00 AMNoĐã ban hành

Nhằm đánh giá thực trạng thi hành quyết định xử lý vi phạm hành chính (XLVPHC) trong lĩnh vực bảo vệ môi trường (BVMT), qua đó đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành quyết định XLVPHC trong lĩnh vực BVMT. 

td.jpg

Chiều ngày 08/7/2020 tại Hội trường Sở Tư pháp tỉnh, Đoàn khảo sát của Viện Khoa học pháp lý được Bộ Tư pháp giao nhiệm vụ chủ trì, phối hợp với sở Tư pháp tổ chức Hội thảo đánh giá thực trạng thi hành các quyết định XLVPHC trong lĩnh vực BVMT trên địa bàn tỉnh Bình Dương do bà Chu Thị Hoa - Phó Viện trưởng - Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp và ông Nguyễn Quốc Trí - Phó Giám đốc - Sở Tư pháp đồng chủ trì với hơn 50 đại biểu là đại diện UBND cấp tỉnh; UBND cấp xã; Cán bộ các sở, ban, ngành gồm: Tài nguyên và Môi trường; Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Công an; Y tế; Tư pháp; Xây dựng; Kế hoạch và Đầu tư; Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh; Hải quan; Thuế và một số doanh nghiệp đã bị XLVPHC trong lĩnh vực BVMT trên địa bàn tỉnh. 

HT 2.jpg 

Tại Hội thảo, các đại biểu đã được nghe báo cáo tham luận của các đơn vị về các vấn đề như: Đánh giá thực tiễn thi hành quyết định XLVPHC trong lĩnh vực BVMT; Thực trạng thi hành quyết định XLVPHC trong lĩnh vực BVMT trên địa bàn huyện; Thực trạng thi hành quyết định XLVPHC trong lĩnh vực BVMT của Công an tỉnh thời gian qua và vai trò của Sở Tư pháp trong việc theo dõi thi hành pháp luật về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT trên địa bàn tỉnh. Đồng thời, tập trung trao đổi, thảo luận và giải đáp các khó khăn, vướng mắc của các đại biểu tham dự trong quá trình thi hành quyết định XLVPHC trong lĩnh vực BVMT tại địa phương. 

HT 1.jpg

Kết thúc Hội thảo, bà Chu Thị Hoa ghi nhận các ý kiến đóng góp của các đại biểu, Đoàn Khảo sát về đánh giá thực trạng thi hành quyết định XLVPHC trong lĩnh vực BVMT sẽ nghiên cứu, tiếp thu các khó khăn, vướng mắc cũng như là các giải pháp đã đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả thi hành Quyết định xử phạt VPHC trong lĩnh vực BVMT trong thời gian tới./.

Linh Nguyễn

FalseNguyễn Thị Linh
1 - 30Next
Ảnh
Video
Audio