Thứ trưởng Nguyễn Khánh Ngọc cho rằng cần thiết phải sửa Nghị định 19 về con nuôi.
Vì thế, Bộ Tư pháp được
giao chủ trì, phối hợp nghiên cứu, xây dựng Nghị định sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định 19 để khắc phục những khó khăn, vướng mắc phát
sinh.
Không để xảy ra vấn đề phức tạp, nhạy cảm
Nhìn lại thời gian vừa
qua, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Khánh Ngọc đánh giá quá trình thực
hiện Luật Nuôi con nuôi và Nghị định 19 đã đạt được nhiều kết quả tốt
đẹp. Ở trong nước, cơ sở pháp lý đồng bộ, toàn diện tại Luật và Nghị
định đã góp phần quan trọng trong xây dựng khung khổ pháp luật, đi cùng
với đó là chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nhà nước trong
lĩnh vực con nuôi được hoàn thiện, đi vào nền nếp.
Đối với việc con nuôi
cụ thể, qua theo dõi, quản lý của Bộ Tư pháp thấy rằng chúng ta đã giải
quyết hồ sơ con nuôi ngày càng chuẩn hơn, bám sát vào yêu cầu pháp lý,
không để xảy ra vấn đề phức tạp, nhạy cảm như giai đoạn trước đây.
Trên bình diện hợp tác
quốc tế về con nuôi, cùng với việc gia nhập Công ước La Hay đã thúc đẩy
thực chất sự phối hợp giữa các cơ quan trong việc giải quyết hồ sơ con
nuôi vừa qua. Tất cả hồ sơ con nuôi quốc tế chưa có trường hợp nào bị
phía nước ngoài từ chối.
Tuy nhiên, Thứ trưởng
Bộ Tư pháp cũng thẳng thắn, quá trình thực hiện Luật và Nghị định đã bộc
lộ những tồn tại, bất cập trong công tác con nuôi. Đáng chú ý là nhiều
trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt có nhu cầu tìm gia đình thay thế, còn cha
mẹ nuôi trong và ngoài nước có nhu cầu nhận con nuôi, nhưng chưa tạo
được cơ chế, cách làm để kết nối các nhu cầu này lại với nhau, số lượng
giải quyết trẻ làm con nuôi còn khá xa so với nhu cầu trên thực tế.
Bên cạnh đó, quy trình,
thủ tục còn chưa tạo thuận lợi, thông thoáng để nhu cầu cha mẹ và con
nuôi dễ dàng gặp được nhau; sự phối hợp liên ngành giữa cơ quan Trung
ương, địa phương còn hạn chế, làm cho một số quy định chưa đi vào cuộc
sống, có cơ quan chưa thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.
Đặc biệt, việc quản lý
tài trợ, tặng cho vật chất của cha mẹ nuôi cho các cơ sở nuôi dưỡng chưa
chặt chẽ, chừng mực nào đó còn thiếu minh bạch, dẫn đến hiểu lầm, hoài
nghi về tính nhân đạo tốt đẹp của công tác con nuôi. Do vậy, Thứ trưởng
nhấn mạnh sự cần thiết trước mắt là sửa đổi Nghị định 19 và về lâu dài
sẽ nghiên cứu sửa đổi Luật.
Đề cao nguyên tắc vì lợi ích tốt nhất cho trẻ
Qua tổng kết thi hành
Nghị định 19, Bộ Tư pháp nhận thấy việc sửa đổi, bổ sung Nghị định cần
tập trung vào 3 nhóm quy định chính. Đó là nhóm quy định không phù hợp
với thực tiễn và gây cản trở cho công tác nuôi con nuôi; nhóm quy định
thiếu thống nhất với hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành và
Công ước La Hay; nhóm quy định chưa tạo thuận lợi cho người dân, tổ chức
thực hiện các thủ tục hành chính.
Việc sửa đổi, bổ sung
Nghị định sẽ giúp Chính phủ nhanh chóng tháo gỡ được những vướng mắc
phát sinh trong thực tiễn, tạo sự đồng bộ trong hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật, đơn giản hóa thủ tục hành chính cũng như tạo tiền đề
tiếp tục hoàn thiện quy định pháp luật về nuôi con nuôi thời gian tới.
Góp ý vào dự thảo Nghị
định sửa đổi, quyền Trưởng đại diện UNICEF Việt Nam Lesley Miller chỉ ra
một số bất cập trong thực tiễn và quy định pháp luật như chưa có tiêu
chí rõ ràng thế nào là trẻ em có nhu cầu đặc biệt; ở địa phương, việc
ghép trẻ với cha mẹ nuôi tiềm năng chưa thống nhất; chưa có quy trình,
thủ tục rõ ràng về việc đóng góp chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em… Bà Miller
cho rằng, cần đề cao nguyên tắc vì lợi ích tốt nhất cho trẻ em, coi đây
là nguyên tắc quan trọng để việc sửa đổi các quy định hướng đến…
Từ góc độ địa phương,
Trưởng phòng Hộ tịch, Quốc tịch (Sở Tư pháp TP HCM) Nguyễn Triều Lưu
quan tâm đến vấn đề nhận trẻ em khuyết tật, trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo
(Danh sách 2) làm con nuôi đích danh.
Trung bình mỗi năm TP
HCM giải quyết khoảng 100 trường hợp trẻ em làm con nuôi nước ngoài, 92%
là trẻ em sống tại các cơ sở nuôi dưỡng, trẻ khuyết tật, mắc bệnh hiểm
nghèo chiếm 65%. Tuy nhiên, việc xác định trẻ khuyết tật, mắc bệnh hiểm
nghèo được nhận đích danh có một số vướng mắc, dẫn đến việc không thống
nhất giữa các đơn vị trong việc phân loại trẻ theo diện Danh sách 1 hoặc
Danh sách 2.
Ông Lưu đề nghị sửa
đổi, bổ sung nội dung này theo hướng giao cho Bộ Y tế chỉ định các cơ sở
chuyên khoa có năng lực thực hiện việc khám, sàng lọc và kết luận về
việc phân loại trẻ vào Danh sách 2.