Đang cập nhật dữ liệu ...
 
  
Phân loại
  
  
  
  
Tóm tắt
  
  
  
  
Nội dung
  
  
KẾ HOẠCH Sơ kết 05 năm thi hành Luật Trách nhiệm bồi thường  của Nhà nước trên địa bàn tỉnh Bình DươngThông báoTinKẾ HOẠCH Sơ kết 05 năm thi hành Luật Trách nhiệm bồi thường  của Nhà nước trên địa bàn tỉnh Bình Dương/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
Thực hiện Quyết định số 1983/QĐ-BTP ngày 07/10/2022 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành kế hoạch sơ kết 05 năm thi hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương ban hành Kế hoạch sơ kết 05 năm thi hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trên địa bàn tỉnh Bình Dương.
7/3/2023 5:00 PMNoĐã ban hành

1. Phạm vi sơ kết

Việc sơ kết được thực hiện trên phạm vi toàn tỉnh, tại tất cả các sở, ban, ngành, các cơ quan, tổ chức ở địa phương.

Mốc thời gian thông tin, số liệu báo cáo sơ kết: Tính từ ngày 01/7/2018 đến ngày 30/6/2023.

2. Nội dung sơ kết

2.1. Kết quả thi hành Luật TNBTCNN trên địa bàn tỉnh.

2.1.1. Trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác bồi thường

+ Việc ban hành văn bản để chỉ đạo, hướng dẫn thi hành Luật TNBTCNN;

+ Tình hình quán triệt, phổ biến, tuyên truyền Luật TNBTCNN và các văn bản hướng dẫn thi hành;

+ Công tác rà soát các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước;

+ Công tác hướng dẫn, bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ công tác bồi thường nhà nước cho đội ngũ công chức được giao thực hiện công tác bồi thường;

+ Công tác xác định cơ quan giải quyết bồi thường theo quy định của Luật TNBTCNN năm 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành;

+ Công tác theo dõi, đôn đốc, kiểm tra công tác bồi thường nhà nước; giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm trong công tác bồi thường nhà nước theo quy định của pháp luật;

+ Công tác kiện toàn tổ chức bộ máy và biên chế để bảo đảm thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác bồi thường;

+ Công tác thống kê, báo cáo về việc thực hiện công tác bồi thường;

+ Công tác phối hợp thực hiện công tác bồi thường nhà nước;

+ Tình hình kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm trong việc giải quyết bồi thường, thực hiện trách nhiệm hoàn trả theo quy định của pháp luật;

+ Tình hình kiến nghị người có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có nội dung giải quyết bồi thường theo quy định của pháp luật; yêu cầu Thủ trưởng cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại hủy quyết định giải quyết bồi thường trong trường hợp có một trong các căn cứ quy định tại khoản 1 và điểm a khoản 3 Điều 48 của Luật TNBTCNN mà không ra quyết định hủy.

2.1.2. Tình hình yêu cầu bồi thường và giải quyết bồi thường.

Trách nhiệm thống kê số liệu vụ việc yêu cầu bồi thường và giải quyết bồi thường: Đề nghị các cơ quan thực hiện theo Điều 26 Thông tư số 08/2019/TT-BTP ngày 10/12/2019 của Bộ Tư pháp quy định biện pháp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước.

2.1.3. Kết quả thực hiện trách nhiệm hoàn trả; tình hình thu, nộp tiền hoàn trả và xử lý kỷ luật người thi hành công vụ có hành vi trái pháp luật.

2.1.4. Tình hình sử dụng ngân sách nhà nước chi cho công tác bồi thường nhà nước.

2.1.5. Tác động tích cực của Luật TNBTCNN, nhất là nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ, công chức trong thi hành công vụ, hạn chế sai phạm làm phát sinh trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.

2.2. Tồn tại, hạn chế trong thi hành luật và nguyên nhân

2.2.1. Tồn tại, hạn chế

2.2.2. Nguyên nhân

- Nguyên nhân chủ quan.

- Nguyên nhân khách quan.

2.3. Hạn chế, bất cập trong các quy định của Luật và văn bản hướng dẫn thi hành

2.4. Đề xuất, kiến nghị

- Kiến nghị về sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định của Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành (nếu có);

- Kiến nghị về các giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức thi hành Luật.

2.5.  Đề xuất khen thưởng những tập thể, cá nhân có thành tích trong 05 năm thi hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và các văn bản hướng dẫn thi hành.

3. Hình thức sơ kết

Tiến hành sơ kết 05 năm thi hành Luật TNBTCNN trong phạm vi ngành, lĩnh vực, địa bàn thuộc phạm vi quản lý bằng hình thức Báo cáo sơ kết theo nội dung tại Phần II Kế hoạch và theo đề cương báo cáo sơ kết 05 năm thi hành Luật TNBTCNN và các biểu mẫu kèm theo Kế hoạch này.​


981-_KH.signed.pdf

FalsePhòng HCTP&QLXLVPHC
Cục Bồi thường Nhà nước - Bộ Tư pháp tổ chức Tọa đàm về những khó khăn, vướng mắc trong 05 năm triển khai và tổ chức thi hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (TNBTCNN) năm 2017 tại tỉnh Bình DươngThông báoTinCục Bồi thường Nhà nước - Bộ Tư pháp tổ chức Tọa đàm về những khó khăn, vướng mắc trong 05 năm triển khai và tổ chức thi hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (TNBTCNN) năm 2017 tại tỉnh Bình Dương/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
6/26/2023 4:00 PMNoĐã ban hành

​Sáng 23/6/2023, tại thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Cục Bồi thường Nhà nước - Bộ Tư pháp đã tổ chức Tọa đàm về những khó khăn, vướng mắc trong 05 năm triển khai và tổ chức thi hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (TNBTCNN) năm 2017 cho các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. Bà Nguyễn Thị Tố Hằng - Phó Cục trưởng Cục Bồi thường Nhà nước và ông Nguyễn Quốc Trí - Phó Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương đồng chủ trì hội nghị.

65557fcac851190f4040.jpg

Thời gian qua, Bình Dương đã tập trung triển khai thực hiện nghiêm túc và hiệu quả Luật TNBTCNN năm 2017. Trên địa bàn tỉnh chưa có vụ khiếu kiện, yêu cầu bồi thường tồn đọng, kéo dài. Riêng trong năm 2022, Toà án nhân dân tỉnh Bình Dương đã xét xử và tuyên Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh bồi thường một trường hợp ngụ tại Bình Dương với số tiền hơn 1 tỷ đồng.

Luật TNBTCNN đã có tác động tích cực tới đời sống kinh tế - xã hội và nhận thức, ý thức trách nhiệm công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức trong thời gian qua. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác triển khai thi hành Luật còn gặp những khó khăn, vướng mắc nhất định.

Số lượng vụ việc đã giải quyết xong trong cả ba lĩnh vực quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án trên cả nước chưa cao. Một số cơ quan giải quyết bồi thường chưa thực hiện nghiêm các quy định về điều kiện thụ lý, giải quyết vụ việc yêu cầu bồi thường trong đó có việc không thực hiện đúng thời hạn giải quyết, xác định thiệt hại, án phí, lệ phí đối với nội dung yêu cầu bồi thường cũng như hướng dẫn người bị thiệt hại thực hiện quyền yêu cầu bồi thường. Việc giải quyết bồi thường tại cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ chưa hiệu quả. Trong một số vụ việc, người bị thiệt hại chưa hợp tác với cơ quan giải quyết bồi thường hoặc một số vụ việc người yêu cầu bồi thường không đưa ra được căn cứ cũng như tài liệu, chứng từ chứng minh thiệt hại của mình…

2da9553ee2a533fb6ab4.jpg

Tại buổi tọa đàm, các đại biểu đã đề xuất các biện pháp nhằm thúc đẩy việc đưa Luật TNBTCNN đi vào cuộc sống. Theo đó, cần nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị trong thực hiện quản lý Nhà nước về công tác bồi thường nhà nước, trong đó chú trọng giải quyết các vụ việc tồn đọng, kéo dài và giải quyết các vụ việc mới đúng quy định của pháp luật. Thường xuyên thực hiện công tác bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ chuyên sâu cho đội ngũ công chức làm công tác bồi thường nhà nước của các sở, ngành, cấp huyện, cấp xã. Chú trọng chất lượng, hiệu quả và thực chất công tác tuyên truyên, phổ biến giáo dục pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước; tăng cường công tác kiểm tra, kiểm tra liên ngành, phối hợp liên ngành và các nhiệm vụ để nắm bắt đầy đủ tình hình yêu cầu bồi thường, giải quyết bồi thường; thực hiện hiệu quả công tác hỗ trợ, hướng dẫn người bị thiệt hại thực hiện thủ tục yêu cầu bồi thường…

IMG_8619.jpg


FalsePhòng HCTP&QLXLVPHC
Sở Tư pháp tổ chức Tập huấn nghiệp vụ công tác bồi thường Nhà nước năm 2023Thông báoTinSở Tư pháp tổ chức Tập huấn nghiệp vụ công tác bồi thường Nhà nước năm 2023/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
6/26/2023 4:00 PMNoĐã ban hành

​Chiều ngày 23/6/2023, tại Trường chính trị tỉnh Bình Dương, Sở Tư pháp đã tổ chức Hội nghị tập huấn chuyên sâu nghiệp vụ công tác bồi thường Nhà nước cho khoảng 120 cán bộ làm công tác pháp chế các sở, ban, ngành; công chức Tư pháp cấp huyện, xã trên địa bàn tỉnh.

a95ab9a614e1c4bf9df0.jpg

Phát biểu khai mạc buổi tập huấn, ông Nguyễn Quốc Trí - Phó Giám đốc Sở Tư pháp nhấn mạnh, trong những năm qua nhận thức pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước của đội ngũ công chức đã được nâng cao và đạt được những kết quả tích cực, góp phần quan trọng vào thực hiện mục tiêu tăng cường pháp chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách hành chính của địa phương. 

Bên cạnh kết quả đạt được, thời gian qua vẫn còn một số hạn chế như: Việc tham mưu về công tác bồi thường Nhà nước chưa có cán bộ chuyên trách; đa số công chức phụ trách công tác bồi thường Nhà nước ở các sở, ngành chưa có kinh nghiệm nên còn lúng túng, gặp không ít khó khăn trong công tác tham mưu. Do vậy, buổi tập huấn nhằm tiếp tục bồi dưỡng nghiệp công tác bồi thường Nhà nước cho cán bộ làm côn tác pháp chế các sở, ban, ngành, công chức Tư pháp cấp huyện, xã trên địa bàn tỉnh. Qua đó, giúp các đơn vị, địa phương nắm rõ và tham mưu có hiệu quả các nhiệm vụ của mình.

cd07c3e36ea4befae7b5.jpg

Tại buổi tập huấn, các đại biểu được nghe báo cáo viên Nguyễn Thị Tố Hằng - Phó Cục trưởng Cục Bồi thường Nhà nước - Bộ Tư pháp trình bày một số nội dung: Kỹ năng, nghiệp vụ quản lý Nhà nước về công tác bồi thường Nhà nước; kỹ năng, nghiệp vụ giải quyết bồi thường; trách nhiệm của cơ quan quản lý Nhà nước về công tác bồi thường Nhà nước; cơ quan tài chính có thẩm quyền, viện kiểm sát có thẩm quyền trong việc tham gia xác minh thiệt hại, thương lượng việc bồi thường, xác định trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ; quyền, nghĩa vụ của người yêu cầu bồi thường, người thi hành công vụ gây thiệt hại và trách nhiệm của cơ quan giải quyết bồi thường; thương lượng việc bồi thường;…

588c7362de250e7b5734.jpg

FalsePhòng HCTP&QLXLVPHC
Triển khai công tác bồi thường nhà nước năm 2023 trên địa bàn tỉnh Bình DươngVăn bản điều hànhTinTriển khai công tác bồi thường nhà nước năm 2023 trên địa bàn tỉnh Bình Dương/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
Ngày 03/02/2023, UBND tỉnh Bình Dương đã ban hành Kế hoạch số 385/KH-UBND Triển khai công tác bồi thường nhà nước năm 2023 trên địa bàn tỉnh Bình Dương
2/14/2023 9:00 AMNoĐã ban hànhFalsePhòng HCTP&QLXLVPHC
Biểu mẫu báo cáo theo Thông tư số 08/2019/TT-BTPVăn bản hướng dẫn nghiệp vụTinBiểu mẫu báo cáo theo Thông tư số 08/2019/TT-BTP/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
10/27/2022 9:00 AMNoĐã ban hànhFalsePhòng HCTP&QLXLVPHC
Hướng dẫn mới của Bộ Tư pháp về Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, đăng ký hộ tịch trực tuyếnVăn bản hướng dẫn nghiệp vụTinHướng dẫn mới của Bộ Tư pháp về Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, đăng ký hộ tịch trực tuyến/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
10/25/2022 4:00 PMNoĐã ban hànhFalsePhòng HCTP&QLXLVPHC
MỘT SỐ NHIỆM VỤ CỦA NGÀNH TƯ PHÁP  THEO QUYẾT ĐỊNH SỐ số 402/QĐ-TTgVăn bản điều hànhTinMỘT SỐ NHIỆM VỤ CỦA NGÀNH TƯ PHÁP  THEO QUYẾT ĐỊNH SỐ số 402/QĐ-TTg/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
10/25/2022 4:00 PMNoĐã ban hànhFalsePhòng HCTP&QLXLVPHC
NHỮNG ĐIỂM LƯU Ý TẠI NGHỊ ĐỊNH 118/2021/NĐ-CP QUY ĐỊNH CHI TIẾT MỘT SỐ ĐIỀU VÀ BIỆN PHÁP THI HÀNH LUẬT  XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNHVăn bản điều hànhTinNHỮNG ĐIỂM LƯU Ý TẠI NGHỊ ĐỊNH 118/2021/NĐ-CP QUY ĐỊNH CHI TIẾT MỘT SỐ ĐIỀU VÀ BIỆN PHÁP THI HÀNH LUẬT  XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
10/25/2022 4:00 PMNoĐã ban hànhFalsePhòng HCTP&QLXLVPHC
Một số kết quả công tác bồi thường Nhà nước trên địa bàn tỉnh Bình Dương sau hơn 3 năm triển khai thực hiện Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2017Văn bản điều hànhBài viếtMột số kết quả công tác bồi thường Nhà nước trên địa bàn tỉnh Bình Dương sau hơn 3 năm triển khai thực hiện Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2017/hanhchinhtuphap/PublishingImages/2022-02/luat-tnbtnn_Key_08022022111230.jpg
2/8/2022 12:00 PMNoĐã ban hành

     Thực hiện quy định của Luật TNBTCNN, các văn bản hướng dẫn thi hành và hướng dẫn của Bộ Tư pháp, UBND tỉnh Bình Dương đã kịp thời triển khai thi hành Luật TNBTCNN, các văn bản hướng dẫn thi hành; bám sát yêu cầu tại Kế hoạch triển khai thi hành Luật TNBTCNN năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ (ban hành kèm theo Quyết định số 1269/QĐ-TTg ngày 25/8/2017 của Thủ tướng Chính phủ); chỉ đạo tiếp cận Luật TNBTCNN theo phương châm phòng ngừa là chính, vì vậy, các sở, ngành, địa phương trên địa bàn tỉnh thường xuyên quán triệt nội dung Luật TNBTCNN, các văn bản hướng dẫn thi hành cho đội ngũ công chức nhằm phòng ngừa phát sinh sai phạm trong thi hành công vụ; nâng cao hơn nữa nhận thức pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với đội ngũ công chức và tổ chức tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước cho cá nhân, tổ chức phù hợp với từng đối tượng theo chức năng, nhiệm vụ của sở, ngành, đơn vị. Vì vậy, từ khi Luật TNBTCNN năm 2017 có hiệu lực đến nay, trên địa bàn tỉnh Bình Dương không phát sinh vụ việc yêu cầu bồi thường của Nhà nước.

     Các quy định của Luật TNBTCNN năm 2017 đã quy định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án; thiệt hại được bồi thường; quyền, nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức bị thiệt hại; cơ quan giải quyết bồi thường; thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường; phục hồi danh dự; kinh phí bồi thường; trách nhiệm hoàn trả; trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong công tác bồi thường nhà nước... Với việc quy định cụ thể, đầy đủ các nội dung trên đã góp phần nâng cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong thực thi công vụ; tạo thuận lợi cho việc giải quyết bồi thường; bảo đảm tốt hơn quyền của người bị thiệt hại; giúp cơ quan quản lý nhà nước về công tác bồi thường có đầy đủ cơ sở pháp lý để thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước, qua đó, nắm bắt một cách toàn diện và thực chất tình hình thực hiện công tác bồi thường nhà nước.

Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện có những vướng mắc, bất cập như: Việc tham mưu về công tác bồi thường nhà nước chưa có cán bộ chuyên trách; đa số công chức phụ trách công tác bồi thường nhà nước ở các Sở, ngành chưa có kinh nghiệm nên còn lúng túng, gặp không ít khó khăn trong công tác tham mưu. Một số đơn vị gửi thông tin, báo cáo về kết quả thực hiện công tác bồi thường nhà nước trong phạm vi quản lý của mình còn chưa đầy đủ thông tin và thời hạn theo đề nghị của Sở Tư pháp.​

FalseNguyễn Thị Thúy Diễm
Thống kê các văn bản liên quan đến công tác bồi thường nhà nướcVăn bản điều hànhTinThống kê các văn bản liên quan đến công tác bồi thường nhà nước/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
Để giúp các Sở, ngành và địa phương trong việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, Sở Tư pháp cung cấp đến các Sở, ngành và Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố những văn bản hiện đang có hiệu lực trong lĩnh vực bồi thường của Nhà nước, cụ thể như sau:
Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017;
Nghị định số 68/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số Điều và biện pháp thi hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước;
Thông tư số 04/2018/TT-BTP ngày 17/5/2018 của Bộ Tư pháp về việc ban hành một số biểu mẫu trong công tác bồi thường nhà nước;
Thông tư liên tịch số 17/2018/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT ngày 20/12/2018 giữa Bộ trưởng Bộ Tư pháp với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Tài chính, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về việc bãi bỏ toàn bộ Thông tư liên tịch số 22/2014/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT ngày 21 tháng 11 năm 2014.
Thông tư số 08/2019/TT-BTP ngày 10 tháng 12 năm 2019 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định biện pháp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước;
Thông tư số 09/2019/TT-BTP ngày 10 tháng 12 năm 2019 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định biện pháp hỗ trợ, hướng dẫn người bị thiệt hại thực hiện thủ tục yêu cầu bồi thường nhà nước
10/27/2021 10:00 AMNoĐã ban hành
FalseĐặng Thị Nhiển
VAI TRÒ CỦA SỞ TƯ PHÁP TRONG THAM MƯU GIÚP UBND CẤP TỈNH QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG TÁC BỒI THƯỜNG  TẠI ĐỊA PHƯƠNG Văn bản hướng dẫn nghiệp vụTinVAI TRÒ CỦA SỞ TƯ PHÁP TRONG THAM MƯU GIÚP UBND CẤP TỈNH QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG TÁC BỒI THƯỜNG  TẠI ĐỊA PHƯƠNG /Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
7/15/2021 4:00 PMYesĐã ban hành

      Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 (Luật TNBTCNN 2017), có hiệu lực từ ngày 01/7/2018. Theo đó, tại Trung ương Chính phủ là cơ quan có trách nhiệm thống nhất quản lý nhà nước về công tác bồi thường trong hoạt động quản lý hành chính, thi hành án, tố tụng trên phạm vi cả nước. Cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước là Bộ Tư pháp. Tại địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (UBND cấp tỉnh) là cơ quan có trách nhiệm thống nhất quản lý nhà nước về công tác bồi thường trong hoạt động quản lý hành chính, thi hành án, tố tụng tại địa phương. Cơ quan tham mưu đầu mối giúp UBND cấp tỉnh quản lý nhà nước về công tác bồi thường là Sở Tư pháp. 
      Tại khoản 3 Điều 73 Luật TNBTCNN năm 2017 đã quy định UBND cấp tỉnh là cơ quan có trách nhiệm thống nhất quản lý nhà nước về công tác bồi thường trong hoạt động quản lý hành chính, thi hành án, tố tụng tại địa phương. Cụ thể, nhiệm vụ UBND cấp tỉnh gồm 09 nhiệm vụ, quyền hạn. Với vai trò là cơ quan tham mưu giúp UBND cấp tỉnh (khoản 4 Điều 73 Luật TNBTCNN năm 2017), Sở Tư pháp có những nhiệm vụ, quyền hạn sau:
    - Thứ nhất, Sở Tư pháp trực tiếp thực hiện nhiệm vụ và báo cáo UBND cấp tỉnh: Xác định cơ quan giải quyết bồi thường theo quy định tại khoản 4 Điều 41 của Luật TNBTCNN.
   - Thứ hai, Sở Tư pháp tham mưu giúp UBND cấp tỉnh thực hiện:
+ Hướng dẫn, bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ công tác bồi thường nhà nước;
+ Hướng dẫn người bị thiệt hại thực hiện thủ tục yêu cầu bồi thường trong phạm vi địa phương mình; 
+ Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra công tác bồi thường nhà nước;
+ Thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm trong công tác bồi thường nhà nước.
   - Thứ ba, Sở Tư pháp tham mưu giúp UBND cấp tỉnh phối hợp, kiến nghị hoặc cùng các cơ quan có thẩm quyền thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn:
+ Xác định cơ quan giải quyết bồi thường theo quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 40 của Luật TNBTCNN; 
+ Hàng năm chủ trì, phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan tại địa phương, thống kê việc thực hiện công tác bồi thường nhà nước báo cáo Bộ Tư pháp theo quy định;
+ Yêu cầu cơ quan giải quyết bồi thường báo cáo về việc giải quyết yêu cầu bồi thường, thực hiện trách nhiệm hoàn trả và xử lý kỷ luật người thi hành công vụ trong trường hợp cần thiết;
+ Kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm trong việc giải quyết bồi thường, thực hiện trách nhiệm hoàn trả trong phạm vi do mình quản lý; 
+ Kiến nghị người có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có nội dung giải quyết bồi thường theo quy định của pháp luật; 
+ Yêu cầu Thủ trưởng cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại hủy quyết định giải quyết bồi thường trong trường hợp có một trong các căn cứ quy định tại khoản 1 và điểm a khoản 3 Điều 48 của Luật mà không ra quyết định hủy. 
   - Thứ tư: là thành phần bắt buộc tham gia xác minh thiệt hại đối với vụ việc phức tạp (khoản 4, Điều 45 Luật TNBTCNN 2017) và tham gia thương lượng (khoản 3, Điều 46 Luật TNBTCNN 2017).​

Sở Tư Pháp ban hành công văn số 993/STP-HCTP ngày 02/7/2021 về việc phối hợp xây dựng Báo cáo thực hiện Nghị quyết số 134/2020/QH14 của Quốc hội khóa XIV về công tác bồi thường nhà nước năm 2021Văn bản hướng dẫn nghiệp vụTinSở Tư Pháp ban hành công văn số 993/STP-HCTP ngày 02/7/2021 về việc phối hợp xây dựng Báo cáo thực hiện Nghị quyết số 134/2020/QH14 của Quốc hội khóa XIV về công tác bồi thường nhà nước năm 2021/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
   Thực hiện quy định Công văn số 2007/BTP-BTNN ngày 21/6/2021 của Bộ Tư pháp và Công văn số 1069/VPUB_NC về Báo cáo thực hiện Nghị quyết số 134/2020/QH14 của Quốc hội khóa XIV về công tác bồi thường nhà nước năm 2021.
7/6/2021 5:00 PMNoĐã ban hành

​Kèm theo mẫu biểu báo cáo, thống kê xem file dưới đây: 

cv2007signed.pdf  (Công văn số 2007/BTP-BTNN ngày 21/6/2021 của Bộ Tư pháp về việc phối hợp xây dựng Báo cáo thực hiện Nghị quyết số 134/2020/QH14 của Quốc hội khóa XIV về công tác bồi thường nhà nước năm 2021​)

CV_1069_VP_UBND_TINH_BD.pdf (Công văn số 1069/VPUB_NC ngày 28/6/2021 về Báo cáo thực hiện Nghị quyết số 134/2020/QH14 của Quốc hội khóa XIV về công tác bồi thường nhà nước năm 2021)

CV_993_STP-HCTP.signed.pdf (Công văn số 993/STP-HCTP của Sở Tư Pháp ngày 02/7/2021 về việc phối hợp xây dựng Báo cáo thực hiện Nghị quyết số 134/2020/QH14 của Quốc hội khóa XIV về công tác bồi thường nhà nước năm 2021)

Biểu mẫu kèm​ theo: Phụ lục số 01, 02.docx


FalsePhòng HCTP&QLXLVPHC
Tuyên truyên về Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nướcVăn bản hướng dẫn nghiệp vụBài viếtTuyên truyên về Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
"LÀM GÌ ĐỂ ĐƯỢC NHÀ NƯỚC BỒI THƯỜNG KHI THIỆT HẠI DO NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ GÂY RA?"
5/27/2021 3:00 PMNoĐã ban hành

​​

Thực hiện Kế hoạch hoạt động năm 2020 - Hợp phần Pagoda trong khuôn khổ Dự án tăng cường pháp luật và tư pháp tại Việt Nam (EU JULE) do Liên minh Châu Âu tài trợ.

Cục Bồi thường nhà nước đã phối hợp với dự án UNDP xây dựng video tuyên truyền quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước.

Video "Làm gì để được Nhà nước bồi thường khi thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra" được xây dựng trên cơ sở nội dung quy định của Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước năm 2017 với cách thức, ngôn ngữ phù hợp dễ tiếp cận với người dân. 

Dưới đây là 02 phiên bản: 01 video tiếng Kinh không có phụ đề và 01 video tiếng Kinh có phụ đề chữ

​​

 

 

FalsePhòng HCTP&QLXLVPHC
Phối hợp thực hiện báo cáo công tác bồi thường nhà nước năm 2020Văn bản hướng dẫn nghiệp vụBài viếtPhối hợp thực hiện báo cáo công tác bồi thường nhà nước năm 2020/hanhchinhtuphap/PublishingImages/2020-11/trien-khai-thi-hanh-luat-trach-nhiem-boi-thuong-cua-nha-nuoc_Key_12112020103811.jpg
Thực hiện Kế hoạch số 4854/KH-UBND ngày 27 tháng 10 năm 2017 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương về triển khai thi hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 (gọi tắt là Luật TNBTCNN năm 2017) trên địa bàn tỉnh Bình Dương và Kết luận số 162/KL-BTNN ngày 22 tháng 6 năm 2020 của Cục Bồi thường nhà nước – Bộ Tư pháp về kiểm tra định kỳ công tác bồi thường nhà nước năm 2020 trên địa bàn tỉnh Bình Dương
11/12/2020 11:00 AMNoĐã ban hành

1. Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh, Viện kiểm sát nhận dân tỉnh, Công an tỉnh, Cục Thi hành án dân sự tỉnh, Thanh tra tỉnh phối hợp với Sở Tư pháp trong công tác theo dõi, nắm bắt tình hình khiếu nại, khiếu kiện trong phạm vi tỉnh để qua đó, có cơ sở phục vụ cho việc dự báo được khả năng phát sinh yêu cầu bồi thường trên địa bàn tỉnh.
2. Thống kê, báo cáo công tác bồi thường nhà nước theo quy định tại Thông tư số 08/2019/TT-BTP ngày 10/12/2019 của Bộ Tư pháp quy định biện pháp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác bồi thường, cụ thể:
- Phạm vi báo cáo: Từ ngày 01 tháng 01 đến hết ngày 31 tháng 10 hàng năm.
- Thời hạn gửi báo cáo: Sở Tư pháp nhận báo cáo năm chậm nhất trước ngày 30 tháng 11 của năm báo cáo.
- Phương thức gửi báo cáo: theo một trong các phương thức: (1) Gửi trực tiếp; (2) Gửi qua dịch vụ bưu chính; (3) Gửi qua hệ thống thư điện tử công vụ và báo cáo phải có chữ ký số hoặc xác nhận của Thủ trưởng cơ quan; (4) gửi qua trục liên thông phần mềm quản lý văn bản.

CV_1812_STP-HCTP.signed.pdf

LUAT TNBTNN 10.signed.pdf

TT 08.signed.pdf

KH-214.signed.pdf

KH 4854 UBND TINH BD.PDF

ND 68.signed.pdf


False
Tiếp và làm việc với Đoàn kiểm tra công tác bồi thường nhà nước của  Cục Bồi thường nhà nước - Bộ Tư phápTin ngành tư pháp; Thông báoBài viếtTiếp và làm việc với Đoàn kiểm tra công tác bồi thường nhà nước của  Cục Bồi thường nhà nước - Bộ Tư pháp/hanhchinhtuphap/PublishingImages/2020-06/f3f7494d1444e91ab055_Key_11062020161718.jpg
6/11/2020 5:00 PMNoĐã ban hành

           Ngày 10/6/2020, Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương đã tổ chức buổi làm việc với Đoàn kiểm tra của Cục Bồi thường nhà nước – Bộ Tư pháp để báo cáo về công tác bồi thường nhà nước trên địa bàn tỉnh Bình Dương theo kế hoạch kiểm tra định kỳ công tác bồi thường nhà nước.

86abe464b96d44331d7c.jpg

          Thành phần tham dự Buổi làm việc, về phía Đoàn kiểm tra của Cục Bồi thường nhà nước: ông Lê Thái Phương, Phó Cục trưởng Cục Bồi thường nhà nước, Trưởng đoàn kiểm tra và các thành viên đoàn; Về phía địa phương: ông Nguyễn Quốc Trí – Phó Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương; các đồng chí là lãnh đạo Ban nội chính tỉnh ủy, Cục THADS tỉnh Bình Dương, TAND tỉnh Bình Dương, VKSND tỉnh Bình Dương, đại diện Công an tỉnh Bình Dương, Sở Tài chính, Sở Nội vụ.

          Tại Buổi làm việc, đại diện Sở Tư pháp đã báo cáo việc thực hiện công tác bồi thường nhà nước, tình hình bồi thường và giải quyết yêu cầu bồi thường trên địa bàn tỉnh Bình Dương trong thời gian qua.

dafa660e3b07c6599f16.jpg

          Bên cạnh đó, các đại biểu cũng đã cùng nhau trao đổi, thảo luận những khó khăn, vướng mắc về việc triển khai thi hành Luật TNBTCNN 2017 trong các ngành và trao đổi về các vụ việc đang giải quyết bồi thường, các vụ việc có khả năng phát sinh trách nhiệm bồi thường trên địa bàn tỉnh Bình Dương và có những kiến nghị, đề xuất đối với công tác bồi thường đến Đoàn kiểm tra.

41b321507c598107d848.jpg

          Qua buổi làm việc, Đoàn kiểm tra đánh giá cao việc triển khai thực hiện công tác bồi thường nhà nước của tỉnh Bình Dương; tiếp thu những kiến nghị, đề xuất của địa phương. Đồng thời cũng đề nghị Sở Tư pháp và các đơn vị có liên quan cần tiếp tục phát huy, dự báo các vụ việc bồi thường có thể xảy ra, kịp thời chỉ đạo, hướng dẫn các cơ quan giải quyết yêu cầu bồi thường ở địa phương để công tác bồi thường nhà nước tại tỉnh Bình Dương được triển khai thực hiện thống nhất và có hiệu quả hơn nữa trong thời gian tới./.

FalsePhòng HCTP&QLXLVPHC
Thông tư số 09/2019/TT-BTP ngày 10/12/2019 quy định biện pháp hỗ trợ, hướng dẫn người bị thiệt hại thực hiện thủ tục yêu cầu bồi thường nhà nướcVăn bản điều hànhThông tư số 09/2019/TT-BTP ngày 10/12/2019 quy định biện pháp hỗ trợ, hướng dẫn người bị thiệt hại thực hiện thủ tục yêu cầu bồi thường nhà nước/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
4/3/2020 10:00 AMNoĐã ban hành

​​tt09.pdf

FalsePhòng HCTP&QLXLVPHC
Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 09/2019/TT-BTP ngày 10/12/2019 quy định biện pháp hỗ trợ, hướng dẫn người bị thiệt hại thực hiện thủ tục yêu cầu bồi thường nhà nướcThông báo; Văn bản điều hànhBộ Tư pháp ban hành Thông tư số 09/2019/TT-BTP ngày 10/12/2019 quy định biện pháp hỗ trợ, hướng dẫn người bị thiệt hại thực hiện thủ tục yêu cầu bồi thường nhà nước/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
4/3/2020 9:00 AMNoĐã ban hành


Nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ, hướng dẫn người bị thiệt hại thực hiện thủ tục yêu cầu bồi thường quy định tại khoản đ khoản 2 và điểm c khoản 3 Điều 73 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017, thực hiện nhiệm vụ quy định tại Điều 37 Nghị định số 68/2018/NĐ-CP ngày 18/5/2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật TNBTCNN (Nghị định 68), ngày 10/12/2019, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 09/2019/TT-BTP quy định biện pháp hỗ trợ, hướng dẫn người bị thiệt hại thực hiện thủ tục yêu cầu bồi thường nhà nước (sau đây gọi tắt là Thông tư số 09/2019/TT-BTP).

Thông tư quy định về nội dung, trách nhiệm cũng như công tác phối hợp, cách thức hỗ trợ, hướng dẫn người bị thiệt hại thực hiện thủ tục yêu cầu bồi thường nhà nước của cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện việc hỗ trợ, hướng dẫn người bị thiệt hại thực hiện thủ tục yêu cầu bồi thường. Thông tư gồm 4 chương với 17 Điều, cụ thể:

Chương I. Những quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 3);

Chương II. Nội dung và trách nhiệm hỗ trợ, hướng dẫn người bị thiệt hại thực hiện thủ tục yêu cầu bồi thường nhà nước (từ Điều 4 đến Điều 8);

Chương III. Cách thức hỗ trợ, hướng dẫn người bị thiệt hại thực hiện thủ tục yêu cầu bồi thường nhà nước, (từ Điều 9 đến Điều 15);

Chương IV. Điều khoản thi hành (Điều 16 và Điều 17).
Ngoài ra, Thông tư còn ban hành kèm theo 03 biểu mẫu trong việc thực hiện việc hỗ trợ, hướng dẫn người bị thiệt hại thực hiện thủ tục yêu cầu bồi thường như: Mẫu văn bản yêu cầu hỗ trợ; Mẫu văn bản yêu cầu hướng dẫn; Sổ tiếp nhận, xử lý yêu cầu hỗ trợ, hướng dẫn. Thông tư số 09/2019/TT-BTP có hiệu lực kể từ ngày 25 tháng 01 năm 2020.​​​​

FalsePhòng HCTP&QLXLVPHC
Thông tư số 08/2019/TT-BTP ngày 10/12/2019 quy định biện pháp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nướcVăn bản điều hànhTinThông tư số 08/2019/TT-BTP ngày 10/12/2019 quy định biện pháp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
3/19/2020 12:00 PMNoĐã ban hànhFalsePhòng HCTP&QLXLVPHC
Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 08/2019/TT-BTP ngày 10/12/2019 quy định biện pháp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nướcThông báoTinBộ Tư pháp ban hành Thông tư số 08/2019/TT-BTP ngày 10/12/2019 quy định biện pháp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
3/19/2020 11:00 AMNoĐã ban hành

         Ngày 10/12/2019, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 08/2019/TT-BTP quy định biện pháp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 25/01/2020.

          Thông tư quy định biện pháp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước của Bộ Tư pháp và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án, cụ thể quy định đối với các nhiệm vụ sau:

          - Hướng dẫn nghiệp vụ công tác bồi thường nhà nước, giải đáp vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước;

          - Theo dõi công tác bồi thường nhà nước;

          - Đôn đốc công tác bồi thường nhà nước;

          - Kiểm tra công tác bồi thường nhà nước;

          - Báo cáo thống kê việc thực hiện công tác bồi thường nhà nước;

          - Kiến nghị, yêu cầu người có thẩm quyền thực hiện công tác bồi thường nhà nước trong một số trường hợp cụ thể.

          Ngoài ra, Thông tư còn ban hành 05 biểu mẫu kèm theo như: Biểu mẫu danh mục vụ việc giải quyết yêu cầu bồi thường; Biểu mẫu về báo cáo việc thực hiện công tác bồi thường nhà nước; Biểu mẫu tổng hợp tình hình yêu cầu bồi thường, giải quyết bồi thường và chi trả tiền bồi thường; Biểu mẫu tình hình thực hiện trách nhiệm hoàn trả; Sổ thụ lý hồ sơ yêu cầu bồi thường.

          Thông tư số 08/2019/TT-BTP ngày 10/12/2019 được ban hành đã đáp ứng yêu cầu triển khai thi hành các quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 về quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước, nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước cũng như công tác phối hợp trong việc thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác bồi thường.​

(sưu tầm)

FalsePhòng HCTP&QLXLVPHC
Kế hoạch triển khai công tác bồi thường nhà nước năm 2020Văn bản điều hànhTinKế hoạch triển khai công tác bồi thường nhà nước năm 2020/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
3/19/2020 11:00 AMNoĐã ban hànhFalsePhòng HCTP&QLXLVPHC
Quyết định số 3062/QĐ-BTP ban hành Bộ tiêu chí đánh giá kết quả thực hiện công tác bồi thường nhà nước Văn bản điều hànhBài viếtQuyết định số 3062/QĐ-BTP ban hành Bộ tiêu chí đánh giá kết quả thực hiện công tác bồi thường nhà nước /Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
12/31/2019 4:00 PMNoĐã ban hành

Ngày 11/12/2019, Bộ Tư pháp ban hành Quyết định số 3062/QĐ-BTP ban hành Bộ tiêu chí đánh giá kết quả thực hiện công tác bồi thường nhà nước thay thế Quyết định số 634/QĐ-BTP ngày 22/3/2013 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc ban hành Bộ tiêu chí và quy trình đánh giá hiệu quả thi hành Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước. Theo đó, một số nội dung đã được sửa đổi, bổ sung so với trước đây như:

          - Về thành phần Bộ tiêu chí, được phân loại nhiều hơn, cụ thể hơn so với 4 nhóm của Bộ tiêu chí theo QĐ số 634/QĐ-BTP:

          Nhóm tiêu chí đánh giá thực hiện quản lý nhà nước công tác bôi thường nhà nước.

          Nhóm tiêu chí đánh giá tổ chức các hoạt động phối hợp thực hiện công tác bồi thường nhà nước.

          Nhóm tiêu chí đánh giá tham gia giải quyết yêu cầu bối thường theo quy định tại khoản 4 Điều 45 và khoản 3 Điều 46 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.

          Nhóm tiêu chí đánh giá điều kiện bảo đảm thực hiện quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước.

          Nhóm tiêu chí đánh giá của cơ quan giải quyết bối thường, cơ quan nhà nước có liên quan tại địa phương trong việc thực hiện quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước và tham gia giải quyết yêu cầu bồi thường.

           - Bộ tiêu chí mới quy định cụ thể hơn về phương pháp đánh giá (phương pháp định tính và phương pháp định lượng) giúp cho quá trình đánh giá được chính xác hơn và việc đánh giá được thuận lợi hơn...

Quyết định số 3062/QĐ-BTP có hiệu lực ngày 11/12/2019 đã kịp thời khắc phục những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong công tác bồi thường nhà nước trong thời gian qua và tăng cường công tác quản lý nhà nước về bồi thường nhà nước, đáp ứng nhu cầu thực tiễn./.​

Quyet_dinh_3062_QD-BTP.pdf

FalsePhòng HCTP&QLXLVPHC
Một số vấn đề về thời hiệu yêu cầu bồi thường theo quy định của Luật TNBT của Nhà nước năm 2017Văn bản hướng dẫn nghiệp vụTinMột số vấn đề về thời hiệu yêu cầu bồi thường theo quy định của Luật TNBT của Nhà nước năm 2017/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
12/5/2019 11:00 AMNoĐã ban hành

Chế định về thời hiệu là một chế định quan trọng trong Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, việc nhận thức đúng và áp dụng nghiêm túc, thống nhất về thời hiệu có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện quyền yêu cầu bồi thường của người bị thiệt hại, cũng như việc giải quyết bồi thường của cơ quan nhà nước. Do đó, việc nhận thức đúng, áp dụng pháp luật thống nhất về thời hiệu, cách tính thời hiệu và các quy định liên quan đến thời hiệu là cần thiết.
1. Thời hiệu yêu cầu bồi thường
Thời hiệu là thời hạn do luật quy định mà khi kết thúc thời hạn đó thì phát sinh hậu quả pháp lý đối với chủ thể theo điều kiện do luật quy định[1]. Thời hiệu yêu cầu bồi thường là thời hiệu hưởng quyền dân sự mà khi kết thúc thời hạn đó, chủ thể được hưởng quyền dân sự.
Theo quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thì thời hiệu yêu cầu bồi thường được hiểu là thời hạn do Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (Luật TNBTCNN) quy định, mà khi kết thúc thời hạn đó thì người bị thiệt hại không còn quyền yêu cầu bồi thường.
          Do thời hiệu yêu cầu bồi thường là thời hiệu hưởng quyền dân sự nên thời hiệu yêu cầu bồi thường trong pháp luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được quy định phù hợp với quy định về thời hiệu khởi kiện về yêu cầu bồi thường thiệt hại trong phần trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của pháp luật dân sự. Quy định về thời hiệu tạo điều kiện bảo toàn chứng cứ để xác định sự thật khách quan trong tranh chấp dân sự. Nếu không có thời hiệu thì những tranh chấp đã xảy ra quá lâu, việc thu thập, xác minh chứng cứ sẽ khó khăn trong hoạt động của Tòa án và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Luật TNBTCNN năm 2017 quy định 04 loại thời hiệu yêu cầu bồi thường như sau:
Thứ nhất, thời hiệu yêu cầu bồi thường áp dụng tại cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại là 03 năm kể từ ngày người có quyền yêu cầu bồi thường nhận được văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường[2]. Theo đó, việc tính thời hạn hưởng quyền yêu cầu bồi thường là 03 năm kể từ ngày người có quyền yêu cầu bồi thường nhận được văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường. Quy định này có lợi và bảo đảm quyền yêu cầu bồi thường hơn cho người có quyền yêu cầu bồi thường. Đồng thời, quy định về thời hiệu này phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 về thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự[3]. Theo đó, Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự được tính từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Như vậy, thời hiệu khởi kiện được tính từ khi có vi phạm nghĩa vụ dân sự mà người có quyền biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, không phải tính tại thời điểm vi phạm nghĩa vụ xảy ra hay thời điểm xảy ra hành vi trái pháp luật gây thiệt hại về sức khỏe, tài sản. Vì có thể sau thời điểm đó, người có quyền yêu cầu mới biết được quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.
Ví dụ 1: Ngày 01/6/2017, Cục THADS tỉnh D ban hành quyết định giải quyết khiếu nại, chấp nhận khiếu nại của ông A về việc Cục THADS tỉnh D tổ chức kê biên, bán đấu giá nhà đất của ông A trái pháp luật. Ngày 15/6/2017, ông A nhận được quyết định giải quyết khiếu nại này thì ngày tính thời hiệu yêu cầu bồi thường phải là ngày 15/6/2017.
Ví dụ 2: Ông T là công chức của Sở Xây dựng tỉnh C. Ngày 02/3/2014, ông T bị kỷ luật bằng hình thức buộc thôi việc. Không đồng ý, ông T đã khởi kiện vụ án hành chính, đề nghị Tòa án giải quyết. Ngày 08/9/2014, Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh C ban hành bản án hành chính sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu của ông T. Ngày 10/9/2015, Tòa án nhân dân tỉnh C ban hành bản án phúc thẩm chấp nhận yêu cầu của ông T, tuyên hủy quyết định buộc thôi việc trái pháp luật và buộc Sở Xây dựng tỉnh C khôi phục việc làm cho ông T (ông T nhận được bản án ngay hôm ban hành). Ngày 20/8/2018, ông T yêu cầu Sở Xây dựng tỉnh C bồi thường đối với toàn bộ lương, thưởng trong khoảng thời gian bị buộc thôi việc. Như vậy, khoảng thời gian tính từ thời điểm ông T nhận được Bản án phúc thẩm ngày 10/9/2015 đến ngày có đơn yêu cầu bồi thường là ngày 20/8/2018 vẫn trong thời hạn 03 năm theo quy định của pháp luật. Như vậy, vụ việc của ông T vẫn nằm trong thời hiệu yêu cầu bồi thường.
Thứ hai, thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường tại Tòa án trong trường hợp người yêu cầu bồi thường đã có văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường và chưa yêu cầu cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại giải quyết yêu cầu bồi thường hoặc rút yêu cầu bồi thường trước thời điểm cơ quan giải quyết bồi thường tiến hành xác minh thiệt hại thì trong thời hạn 03 năm kể từ ngày nhận được văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường, người yêu cầu bồi thường có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết bồi thường[4].
Ví dụ: Ngày 12/3/2017, ông A nhận được quyết định giải quyết khiếu nại của UBND tỉnh C về việc chấp nhận khiếu nại của ông A trong việc UBND huyện B, tỉnh C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không đúng quy định pháp luật cho ông. Ngày 05/8/2018, ông A yêu cầu UBND huyện B yêu cầu bồi thường. Ngày 15/9/2018, UBND huyện B đã thụ lý yêu cầu bồi thường của ông A. Tuy nhiên, sau đó, ngày 18/9/2018, ông A đã rút đơn yêu cầu bồi thường trước khi UBND huyện B tiến hành xác minh thiệt hại và khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết yêu cầu bồi thường. Trong trường hợp này, kể từ ngày ông A nhận được quyết định giải quyết khiếu nại ngày 12/3/2018 đến ngày 18/9/2018 thì ông A vẫn còn thời hiệu thực hiện quyền khởi kiện yêu cầu bồi thường.
Thứ ba, thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường tại Tòa án là 15 ngày trong trường hợp yêu cầu bồi thường đã được giải quyết tại cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại, nhưng sau đó người yêu cầu bồi thường khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết trong các trường hợp sau[5]:
(i) Không đồng ý với quyết định giải quyết bồi thường trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được quyết định. Người yêu cầu bồi thường không có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết yêu cầu bồi thường trong trường hợp quyết định giải quyết bồi thường đã có hiệu lực pháp luật. Quyết định giải quyết bồi thường có hiệu lực sau 15 ngày kể từ ngày trao cho người yêu cầu bồi thường quyết định giải quyết bồi thường[6]. Ví dụ: Trường hợp ông T đã được Sở Xây dựng tỉnh C giải quyết bồi thường. Ngày 05/5/2019, ông T đã được Sở Xây dựng tỉnh C trao quyết định giải quyết bồi thường. Tuy nhiên, ông T không đồng ý với quyết định giải quyết bồi thường này nên ngày 01/6/2019, ông T khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh C giải quyết bồi thường. Trong trường hợp này, kể từ ngày ông T nhận được quyết định giải quyết bồi thường ngày 05/5/2019 đến ngày 01/6/2019 đã quá thời hạn 15 ngày nên ông T không có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết nữa.
(ii) Kể từ ngày có biên bản kết quả thương lượng thành quy định tại khoản 7 Điều 46 Luật TNBTCNN năm 2017 mà cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại không ra quyết định giải quyết bồi thường. Ví dụ: Trường hợp ông T đã được Sở Xây dựng tỉnh C thụ lý giải quyết và có biên bản thương lượng thành. Tuy nhiên, sau đó, Sở Xây dựng tỉnh C không ra quyết định giải quyết bồi thường ngay thì trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày có biên bản thương lượng thành, ông T có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết bồi thường.
(iii) Kể từ ngày có biên bản kết quả thương lượng không thành quy định tại khoản 7 Điều 46 Luật TNBTCNN năm 2017. Ví dụ: Trường hợp ông T đã được Sở Xây dựng tỉnh C thụ lý giải quyết. Tuy nhiên, trong quá trình thương lượng, Sở Xây dựng tỉnh C và ông T không thống nhất được mức thiệt hại bồi thường nên Sở Xây dựng tỉnh C đã lập biên bản kết quả thương lượng không thành có chữ ký của ông T. Trong trường hợp này, trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày có biên bản thương lượng không thành, ông T có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết bồi thường.
Trường hợp do sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho người yêu cầu bồi thường khổng thể thực hiện việc khởi kiện đúng thời hạn đối với thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường tại Tòa án nêu tại mục 3 thì khoảng thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan đó không được tính vào thời hạn khởi kiện này. Ví dụ: Trường hợp ông T đã được Sở Xây dựng tỉnh C giải quyết bồi thường. Ngày 05/5/2019, ông T đã được Sở Xây dựng tỉnh C trao quyết định giải quyết bồi thường. Tuy nhiên, ông T không đồng ý với quyết định giải quyết bồi thường này nên ngày 01/6/2019, ông T khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh C giải quyết bồi thường. Trong khoảng thời gian từ ngày 05/5/2019, ông T bị tai nạn giao thông phải nhập viện. Ngày 18/5/2019, ông T được ra viện và hồ sơ bệnh án của bệnh viện xác nhận ông T bị gãy chân và chấn thương sọ não đến ngày 18/5/2019 mới được xuất viện. Như vậy, kể từ ngày ông T nhận được quyết định giải quyết bồi thường ngày 05/5/2019 đến ngày 01/6/2019 đã quá thời hạn 15 ngày nhưng vì ông T bị tai nạn nhập viện từ ngày 05/5/2019 đến ngày 18/5/2019 nên khoảng thời gian này không tính vào thời hạn khởi kiện. Do đó, kể từ ngày 18/5/2019 đến ngày 01/6/2019 nộp đơn khởi kiện thì ông T vẫn còn thời hiệu khởi kiện.
Thứ tư, trường hợp người yêu cầu bồi thường yêu cầu bồi thường trong quá trình tố tụng hình sự, tố tụng hành chính thì thời hiệu yêu cầu bồi thường được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự, tố tụng hành chính[7]. Thời điểm chấp nhận yêu cầu bồi thường trong quá trình tố tụng hình sự, tố tụng hành chính là thời điểm Tòa án có thẩm quyền thụ lý yêu cầu bồi thường.
2. Xác định thời hiệu yêu cầu bồi thường
Khi giải quyết bồi thường, cơ quan giải quyết yêu cầu bồi thường phải căn cứ trên những tài liệu có trong hồ sơ để xác định vụ việc còn thời hiệu yêu cầu bồi thường hay không. Theo đó, cơ quan giải quyết bồi thường cần xác định:
(1) Khoảng thời gian tính từ thời điểm người có quyền yêu cầu bồi thường nhận được văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường đến thời điểm nộp đơn yêu cầu bồi thường lần đầu.
(2) Các khoảng thời gian không tính vào thời hiệu yêu cầu bồi thường. Người yêu cầu bồi thường có nghĩa vụ cung cấp thông tin và tài liệu, chứng cứ chứng minh khoảng thời gian không tính vào thời hiệu này[8].
Đối với trường hợp giải quyết bồi thường tại cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại, cơ quan giải quyết bồi thường xác định các trường hợp sau được xác định là còn thời hiệu yêu cầu bồi thường:
- Thời điểm người yêu cầu bồi thường nhận được văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường đến thời điểm nộp đơn yêu cầu bồi thường là không quá 03 năm. Ví dụ: Ngày 03/9/2015, ông A nhận được quyết định giải quyết khiếu nại của UBND tỉnh N, trong đó chấp nhận khiếu nại của ông A về việc UBND huyện B, tỉnh N cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trái pháp luật. Ngày 30/7/2018, ông A yêu cầu UBND huyện B giải quyết bồi thường. Trong trường hợp này, kể từ ngày ông A nhận được quyết định giải quyết khiếu nại ngày 03/9/2015 đến ngày 30/7/2018 thì ông A vẫn trong thời hạn 03 năm nên ông A vẫn còn thời hiệu yêu cầu bồi thường.
- Những trường hợp mà tính từ thời điểm người yêu cầu bồi thường nhận được văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường đến thời điểm nộp đơn yêu cầu bồi thường đã quá 03 năm nhưng có các khoảng thời gian không tính vào thời hiệu thì phải trừ đi khoảng thời gian này. Nếu sau khi trừ đi khoảng thời gian không tính vào thời hiệu mà khoảng thời gian tính từ thời điểm người yêu cầu bồi thường nhận được văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường đến thời điểm nộp đơn yêu cầu bồi thường không vượt quá 03 năm thì yêu cầu bồi thường vẫn còn thời hiệu. Trường hợp, vượt quá 03 năm thì yêu cầu bồi thường đã hết thời hiệu để giải quyết.
3. Khoảng thời gian không tính vào thời hiệu yêu cầu bồi thường
          Luật TNBTCNN năm 2017 quy định các khoảng thời gian không tính vào thời hiệu yêu cầu bồi thường theo hướng phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, qua đó bảo đảm hơn quyền yêu cầu bồi thường của người bị thiệt hại. Cụ thể, Luật TNBTCNN năm 2017 quy định các khoảng thời gian không tính vào thời hiệu yêu cầu bồi thường sau[9]:
          (1) Khoảng thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan theo quy định của Bộ luật Dân sự làm cho người có quyền yêu cầu bồi thường không thể thực hiện được quyền yêu cầu bồi thường. Theo đó, Bộ luật Dân sự[10] quy định sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép. Ví dụ, báo lũ làm hỏng đường, giao thông bị tắc nghẽn không đi lại được… Trở ngại khách quan là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động làm cho người có quyền, nghĩa vụ dân sự không thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được quyền, nghĩa vụ dân sự của mình. Ví dụ, bị tai nạn giao thông, ốm đau…
          (2) Khoảng thời gian mà người bị thiệt hại là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi chưa có người đại diện theo quy định của pháp luật hoặc người đại diện đã chết hoặc không thể tiếp tục là người đại diện cho tới khi có người đại diện mới.
Thông thường, người yêu cầu bồi thường phải là người thành niên, có năng lực hành vi dân sự. Do vậy, nếu người bị thiệt hại là người chưa thành niên, mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì cần người đại diện. Tuy nhiên, vì lý do khách quan mà chưa cử được người đại diện thì thời gian này không tính vào thời hiệu yêu cầu bồi thường.
Trường hợp người đại diện của người chưa thành niên, mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi chết hoặc trường hợp người đại diện có lý do chính đáng mà không thể tiếp tục làm người đại diện cho tới khi có người đại diện mới thì thời hạn chờ cử người đại diện thay thế không tính vào thời hiệu yêu cầu bồi thường. Ví dụ: người đại diện được cử bị bệnh nặng mà chưa cử được người đại diện thay thế thì cần phải tiếp tục cử người đại diện thay thế.
Ví dụ: Ngày 01/7/2015, A (12 tuổi, bố mất chỉ còn mẹ) nhận được quyết định giải quyết khiếu nại của UBND huyện B, tỉnh C, trong đó chấp nhận khiếu nại của A về việc UBND xã D, huyện B áp dụng biện pháp giáo dục tại xã D đối với A là trái pháp luật. Ngày 01/8/2015, mẹ của A mất.  A được bác ruột (anh trai bố) nhận làm con nuôi (có Quyết định của UBND xã D ngày 01/8/2016). Ngày 01/12/2018, cha nuôi của A gửi đơn yêu cầu bồi thường đến UBND xã D. Như vậy, trong khoảng thời gian từ ngày 01/7/2015 nhận được văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường đến ngày 01/12/2018 nộp đơn yêu cầu bồi thường là 3 năm 5 tháng. Tuy nhiên, khoảng thời gian từ ngày 01/8/2015 mẹ A mất đến ngày 01/8/2016 có cha nuôi là 1 năm không được tính trong thời hạn tính thời hiệu. Như vậy, thời hạn để tính thời hiệu yêu cầu bồi thường của cha nuôi A là 2 năm 5 tháng nên vẫn còn thời hiệu theo quy định của Luật TNBTCNN năm 2017.
(3) Xác định thời hiệu trong trường hợp đặc biệt, Luật TNBTCNN năm 2017 quy định trong trường hợp người yêu cầu bồi thường chưa xác định ngay được cơ quan giải quyết bồi thường mà nộp hồ sơ đến Sở Tư pháp nơi người bị thiệt hại cư trú hoặc có trụ sở thì Sở Tư pháp có trách nhiệm xác định cơ quan giải quyết bồi thường và chuyển hồ sơ đến cơ quan giải quyết bồi thường và thông báo bằng văn bản cho người yêu cầu bồi thường. Nghị định số 68/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước quy định trường hợp người yêu cầu bồi thường đã nộp hồ sơ tại Sở Tư pháp để xác định cơ quan giải quyết bồi thường trong thời hiệu yêu cầu bồi thường nhưng tại thời điểm nhận hồ sơ do Sở Tư pháp chuyển đến mà thời hiệu yêu cầu bồi thường đã hết thì cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại phải thụ lý hồ sơ do Sở Tư pháp chuyển đến[11].
Ví dụ: Ngày 15/7/2015, TAND tỉnh A ban hành bản án hành chính phúc thẩm chấp nhận nội dung khởi kiện của ông A về việc: Chi cục THADS huyện B, tỉnh A có sai phạm trong việc kê biên, bán đấu giá nhà đất của ông A dẫn tới việc UBND huyện B, tỉnh A tham mưu UBND tỉnh A ban hành quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông D (người mua được tài sản bán đấu giá) không đúng. Ông A nhận được bản án ngày 15/7/2015. Trên cơ sở này, ngày 16/10/2015, UBND tỉnh A đã ban hành quyết định hủy bỏ quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông D. Ngày 12/8/2018, ông A gửi hồ sơ yêu cầu bồi thường đến Sở Tư pháp tỉnh A đề nghị xác định cơ quan giải quyết bồi thường. Ngày 17/8/2018, Sở Tư pháp tỉnh A xác định cơ quan giải quyết bồi thường là UBND huyện B và chuyển hồ sơ cho UBND huyện B giải quyết. Như vậy, kể từ ngày 15/7/2015 ông A nhận được văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường đến ngày hồ sơ chuyển cho UBND huyện B này 17/8/2018 là 3 năm 02 ngày nhưng do hồ sơ yêu cầu bồi thường đã được chuyển đến Sở Tư pháp tỉnh A từ ngày 12/8/2018 nên thời hạn để tính thời hiệu yêu cầu bồi thường của ông A là 2 năm 11 tháng 27 ngày. Do đó, UBND huyện B vẫn phải giải quyết yêu cầu bồi thường của ông A.
4. Một số vướng mắc trong việc áp dụng quy định về thời hiệu yêu cầu bồi thường trong Luật TNBTCNN năm 2017 trong thực tiễn
Trong thực tế có một số vụ việc yêu cầu bồi thường mà việc xác định thời hiệu yêu cầu bồi thường trong Luật TNBTCNN năm 2017 chưa quy định, cụ thể như sau:
4.1. Bà T khiếu nại UBND huyện B, tỉnh Nghệ An về việc: năm 2004 bà T nhận quyền sử dụng đất của D, tuy nhiên đến tháng 8/2004, UBND huyện B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng  đất mang tên T và  H (kết hôn với bà T năm 2007) là không đúng. Ngày 18/8/2014, UBND huyện B có Kết luận thanh tra việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng cho bà T và ông H là chưa đúng quy định của pháp luật, lý do vì ông H không có tên trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất; trách nhiệm đối với vụ việc này thuộc về Chủ tịch UBND xã Q, huyện B. Ngày 12/9/2014, UBND huyện B ban hành quyết định về việc thu hồi, hủy bỏ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bà T và ông H. Ngày 02/6/2016, Tòa án nhân dân tỉnh C bản án phúc thẩm vụ án tranh chấp tài sản và nghĩa vụ nuôi con khi ly hôn giữa bà T và ông H, trong đó khẳng định bà T được quyền sử dụng mảnh đất mà không có nội dung nào về hành vi thi hành công vụ. Ngày 20/7/2018, bà T có đơn yêu cầu bồi thường gửi UBND huyện B, đồng thời yêu cầu thu thập văn bản xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ. UBND huyện B đã không thụ lý yêu cầu bồi thường của bà T với lý do hết thời hiệu yêu cầu bồi thường theo quy định của Luật TNBTCNN năm 2017 (tính từ ngày 12/9/2014 ban hành Quyết định hủy bỏ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bà T và ông H đến ngày 20/7/2018 có đơn yêu cầu bồi thường lần đầu).
4.2. Ông A và B tranh chấp quyền sử dụng đất với nhau từ năm 1999 và đã được cơ quan có thẩm quyền ban hành nhiều văn bản giải quyết khiếu nại khác nhau. Trong đó, văn bản giải quyết khiếu nại cuối cùng có hiệu lực thi hành là Quyết định giải quyết khiếu nại N của Chủ tịch UBND tỉnh C ngày 10/9/2009, công nhận quyền sử dụng đất của ông A. Ông B không đồng ý với Quyết định này đã khởi kiện yêu cầu Tòa án xem xét hủy Quyết định giải quyết khiếu nại N. Theo đó, TAND tỉnh C đã có bản án hành chính sơ thẩm ngày 28/5/2013, tuyên công nhận Quyết định giải quyết khiếu nại N. Ông B làm đơn kháng cáo và ngày 30/9/2013, Tòa án phúc thẩm tại HCM ban hành bản án phúc thẩm, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông B. Ông B tiếp tục đề nghị giám đốc thẩm bản án phúc thẩm. Ngày 28/5/2015, Viện trưởng VKSNDTC có kháng nghị đề nghị Hội đồng thẩm phán TANDTC hủy Bản án hành chính phúc thẩm và Bản án hành chính sơ thẩm nêu trên. Ngày 13/01/2016, Hội đồng thẩm phán TANDTC quyết định giám đốc thẩm, quyết định không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng VKSNDTC. Ngày 11/9/2017, ông A có đơn yêu cầu bồi thường về kinh tế và tinh thần theo quy định của Luật TNBTCNN trong thời gian giải quyết khiếu nại.
4.3. Bình luận
Theo quy định tại Điều 153 Bộ luật Dân sự năm 2015 về tính liên tục của thời hiệu hưởng quyền dân sự, miễn trừ nghĩa vụ dân sự thì thời hiệu hưởng quyền dân sự có tính liên tục từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc; nếu có sự kiện làm gián đoạn thì thời hiệu phải được tính lại từ đầu, sau khi sự kiện làm gián đoạn chấm dứt. Theo đó, thời hiệu hưởng quyền dân sự bị gián đoạn khi có sự kiện sau đây: Quyền, nghĩa vụ dân sự đang được áp dụng thời hiệu mà bị người có quyền, nghĩa vụ liên quan tranh chấp và đã được giải quyết bằng một bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án.
Tuy nhiên, Luật TNBTCNN năm 2017 chỉ quy định về 03 loại khoảng thời gian không tính vào thời hiệu yêu cầu bồi thường mà không quy định về tính liên tục của thời hiệu hưởng quyền dân sự như trong Bộ luật Dân sự 2015. Trong khi đó, về nguyên tắc, việc bồi thường của Nhà nước chỉ được thực hiện theo quy định của Luật TNBTCNN năm 2017[12]. Quay lại nguyên tắc áp dụng Bộ luật Dân sự năm 2015 thì có quy định Luật khác có liên quan điều chỉnh quan hệ dân sự trong các lĩnh vực cụ thể không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự và trường hợp luật khác có liên quan không quy định hoặc có quy định nhưng vi phạm nguyên tắc của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 được áp dụng[13].
Như vậy, trường hợp yêu cầu của bà T và ông A có đặc điểm như sau:
- Trường hợp của bà T, trong khoảng thời gian từ ngày 12/9/2014 ban hành Quyết định hủy bỏ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bà T và ông H đến ngày 02/6/2016 có phúc thẩm vụ án tranh chấp tài sản và nghĩa vụ nuôi con khi ly hôn giữa bà T và ông H, trong đó khẳng định bà T được quyền sử dụng mảnh đất thì quyền sử dụng đất của bà T đang được Tòa án xem xét.
- Trường hợp của ông A, trong khoảng thời gian từ ngày 10/9/2009 có Quyết định giải quyết khiếu nại N của Chủ tịch UBND tỉnh C đến ngày 11/9/2017 ông A có đơn yêu cầu bồi thường thì quyền sử dụng đất của ông A đang được Tòa án xem xét để giải quyết tranh chấp đất đai với ông B.
Như vậy, trường hợp yêu cầu của bà T nếu được áp dụng quy định trong Bộ luật Dân sự thì thời hiệu yêu cầu bồi thường sẽ được tính từ ngày 02/6/2016 có phúc thẩm vụ án tranh chấp tài sản và nghĩa vụ nuôi con khi ly hôn giữa bà T và ông H. Trường hợp yêu cầu của ông A nếu được áp dụng quy định trong Bộ luật Dân sự thì thời hiệu yêu cầu bồi thường sẽ được tính từ ngày 13/01/2016 Hội đồng thẩm phán TANDTC quyết định giám đốc thẩm, quyết định không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng VKSNDTC. Như vậy, trong cả hai trường hợp, yêu cầu bồi thường đều còn thời hiệu.
Tóm lại, quy định về thời hiệu yêu cầu bồi thường trong Luật TNBTCNN năm 2017 được tiếp thu, sửa đổi từ các quy định của Luật TNBTCNN năm 2009 và phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 về thời hiệu. Việc năm bắt các quy định này giúp bảo đảm hơn việc thực hiện quyền yêu cầu bồi thường của người bị thiệt hại, qua đó bảo vệ tốt hơn quyền của công dân theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013. Tuy nhiên, đối với trường hợp có sự kiện làm phát sinh việc tính lại thời hiệu hưởng quyền dân sự nêu trên thì Luật TNBTCNN năm 2017 cần quy định thêm để tiếp tục bảo đảm hơn quyền của công dân theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013.
Lê Thị Thu Hằng - Cục Bồi thường nhà nước
(Sưu tầm: Trang thông tin điện tử Bộ Tư pháp)
FalsePhòng HCTP&QLXLVPHC
Báo cáo công tác bồi thường nhà nước năm 2019Văn bản điều hànhTinBáo cáo công tác bồi thường nhà nước năm 2019/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
11/21/2019 12:00 PMNoĐã ban hànhFalsePhòng HCTP&QLXLVPHC
VKSND có vị trí, vai trò quan trọng trong công tác giải quyết bồi thường Nhà nướcThông báoTinVKSND có vị trí, vai trò quan trọng trong công tác giải quyết bồi thường Nhà nước/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
(BVPL) - Trình bày tham luận tại Hội nghị tập huấn công tác bồi thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự thuộc trách nhiệm của Viện kiểm sát do VKSND tối cao tổ chức, đại diện lãnh đạo Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học (Vụ 14), VKSND tối cao đã đề cập đến những nội dung sửa đổi, bổ sung của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (Luật TNBTCNN) năm 2017 và vị trí, vai trò của VKSND trong công tác giải quyết bồi thường nhà nước.
6/5/2019 3:00 PMNoĐã ban hành

Bổ sung nguyên tắc “Bình đẳng, thiện chí, trung thực”

Luật TNBTCNN 2009 quy định các nguyên tắc, đó là: Kịp thời, công khai, đúng pháp luật; được tiến hành trên cơ sở thương lượng; được trả một lần bằng tiền trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác (Điều 7).

Đồng thời, Luật TNBTCNN 2009 (Điều 4) quy định việc giải quyết yêu cầu bồi thường lần đầu được thực hiện theo 1 trong 3 cơ chế, đó là: Tại cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại; trường hợp hết thời hạn mà cơ quan giải quyết bồi thường không ra quyết định hoặc không đồng ý với quyết định giải quyết bồi thường thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết bồi thường theo thủ tục tố tụng dân sự; giải quyết kết hợp tại cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong quá trình khiếu nại; giải quyết kết hợp tại Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án hành chính.

 Hội nghị tập huấn công tác bồi thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự thuộc trách nhiệm của Viện kiểm sát

Luật TNBTCNN 2017 đã bổ sung nguyên tắc: “bình đẳng, thiện chí, trung thực” và nguyên tắc “việc bồi thường của Nhà nước được thực hiện theo quy định của Luật này”.

Bổ sung quy định rõ nguyên tắc: Người yêu cầu bồi thường đã yêu cầu một cơ quan giải quyết bồi thường và đã được cơ quan đó thụ lý giải quyết thì không được yêu cầu cơ quan khác giải quyết yêu cầu bồi thường, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều 52 của Luật này (khoản 3 Điều 4). 

Bên cạnh đó, Luật TNBTCNN 2017 đã bổ sung quy định cụ thể: Trường hợp người bị thiệt hại có một phần lỗi trong việc gây ra thiệt hại thì Nhà nước chỉ bồi thường phần thiệt hại sau khi trừ đi phần thiệt hại tương ứng với phần lỗi của người bị thiệt hại (khoản 5 Điều 4).

Về các cơ chế giải quyết yêu cầu bồi thường, Luật TNBTCNN 2017 tiếp tục kế thừa quy định của Luật TNBTCNN 2009 đồng thời, sửa đổi, bổ sung một số nội dung, đó là: Không còn quy định cơ chế giải quyết yêu cầu bồi thường kết hợp trong quá trình giải quyết khiếu nại tại cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại; bổ sung cơ chế giải quyết yêu cầu bồi thường lần đầu tại Tòa án (khi có văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường, có thể khởi kiện ngay vụ án dân sự yêu cầu bồi thường tại Tòa án); bổ sung cơ chế kết hợp giải quyết yêu cầu bồi thường trong tố tụng hình sự tại Tòa án (khoản 4 Điều 4).

Bổ sung các hành vi bị nghiêm cấm trong việc giải quyết bồi thường

Luật TNBTCNN 2009 quy định 4 hành vi bị cấm, gồm: Giả mạo hồ sơ, tài liệu, giấy tờ để được bồi thường; thông đồng giữa người bị thiệt hại, người có trách nhiệm giải quyết bồi thường và người có liên quan để trục lợi trong việc bồi thường; lợi dụng chức vụ, quyền hạn can thiệp trái pháp luật vào quá trình giải quyết bồi thường; không giải quyết bồi thường hoặc giải quyết bồi thường trái pháp luật.

Luật TNBTCNN 2017 đã làm rõ, đồng thời bổ sung một số hành vi bị nghiêm cấm, cụ thể đó là: Cung cấp tài liệu, chứng cứ sai sự thật trong hồ sơ yêu cầu bồi thường và trong quá trình giải quyết yêu cầu bồi thường; thông đồng giữa người yêu cầu bồi thường với người giải quyết bồi thường, người có liên quan để trục lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn can thiệp trái pháp luật vào quá trình xác định trách nhiệm hoàn trả và xem xét, xử lý kỷ luật người thi hành công vụ gây thiệt hại; không ra quyết định giải quyết bồi thường; không thực hiện việc xác định trách nhiệm hoàn trả hoặc không xem xét, xử lý kỷ luật người thi hành công vụ gây thiệt hại; sách nhiễu, cản trở hoạt động giải quyết yêu cầu bồi thường.

Phó Vụ trưởng Vụ 14, VKSND tối cao Phạm Hoàng Diệu Linh giới thiệu những nội dung sửa đổi, bổ sung của Luật TNBTCNN năm 2017 

Cũng theo lãnh đạo Vụ 14, VKSND tối cao cho biết, theo quy định của Luật TNBTCNN 2017, Bộ luật TTHS 2015,  Bộ luật TTDS 2015 và Luật TTHC 2015, trong công tác bồi thường nhà nước, VKSND có các vị trí, vai trò, đó là:

Là cơ quan trực tiếp giải quyết bồi thường trong hoạt động TTHS; tham gia một số hoạt động giải quyết bồi thường của các cơ quan khác trong hoạt động TTHS.

Là cơ quan kiểm sát việc giải quyết vụ án dân sự về yêu cầu bồi thường tại Tòa án; cơ quan kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính kết hợp giải quyết yêu cầu bồi thường nhà nước tại Tòa án.

Là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử vụ án hình sự kết hợp giải quyết yêu cầu bồi thường nhà nước tại Tòa án; đồng thời, là cơ quan kiểm sát việc thi hành các bản án, quyết định của Tòa án về giải quyết yêu cầu bồi thường nhà nước.​

Luật TNBTCNN 2017 gồm 09 chương, 78 điều. So với Luật TNBTCNN 2009, Luật đã sửa đổi 54/67 điều, bỏ 13 điều và quy định mới 24 điều. Thay vì kết cấu chương theo lĩnh vực thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (gồm quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án), Luật TNBTCNN 2017 kết cấu chương theo những vấn đề cơ bản của việc giải quyết bồi thường, bảo đảm bố cục rõ ràng, mạch lạc hơn.
Sưu tầm: Báo Bảo vệ​​ pháp luật​ ​(cơ quan của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao)​
FalsePhòng HCTP&QLXLVPHC
Kế hoạch triển khai công tác bồi thường nhà nước năm 2019Văn bản điều hànhTinKế hoạch triển khai công tác bồi thường nhà nước năm 2019/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
6/5/2019 2:00 PMNoĐã ban hànhFalsePhòng HCTP&QLXLVPHC
Báo cáo hoạt động quản lý nhà nước về công tác bồi thường năm 2018Văn bản điều hànhTinBáo cáo hoạt động quản lý nhà nước về công tác bồi thường năm 2018/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
12/24/2018 9:00 AMNoĐã ban hànhFalsePhòng HCTP&QLXLVPHC
Bảo đảm một số quyền dân sự, chính trị thông qua các quy định của luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2017TinBảo đảm một số quyền dân sự, chính trị thông qua các quy định của luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2017/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
12/20/2018 1:00 PMNoĐã ban hành

Để cụ thể hóa các quy định về quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân nói chung và quyền được bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra nói riêng, năm 2009 Bộ Tư pháp đã tham mưu cho Chính phủ trình Quốc hội ban hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (Luật TNBTCNN) năm 2009. Luật TNBTCNN năm 2009 được ban hành đã thể chế hóa các chủ trương, quan điểm của Đảng được đề ra tại Nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng Cộng sản Việt Nam,cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 1992 cũng như phù hợp, đồng bộ với các đạo luật cơ bản vào thời điểm đó. Việc triển khai thực hiện hiệu quả Luật TNBTCNN năm 2009 đã khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong việc thiết lập cơ chế đặc thù để cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp thực hiện quyền yêu cầu Nhà nước bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra; đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người bị thiệt hại trong thực hiện quyền yêu cầu bồi thường của mình. Có thể khẳng định rằng, việc ban hành và tổ chức thực hiện Luật TNBTCNN năm 2009 cơ bản đã đạt được mục đích khi được Quốc hội thông qua lần đầu, hoàn thành được vai trò, sứ mệnh của mình trong giai đoạn đó.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, trước sự thay đổi về yêu cầu bảo đảm, bảo vệ quyền con người, về tình hình phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế cũng như sự phát triển của hệ thống pháp luật, cải cách tư pháp, cải cách hành chính trên đất nước ta nên Luật TNBTCNN năm 2009 đã bộc lộ nhiều hạn chế, bấp cập. Vì vậy, Bộ Tư pháp đã tham mưu Chính phủ trình Quốc hội xây dựng Luật TNBTCNN (sửa đổi). Trong quá trình xây dựng dự án Luật TNBTCNN (sửa đổi), Cục Bồi thường nhà nước đã tổ chức rà soát các quy định của Luật TNBTCNN năm 2009 với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, Hiến pháp năm 2013 và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan về quyền con người để bảo đảm thống nhất, phù hợp. Bên cạnh đó, Cục Bồi thường nhà nước đã tham mưu cho Lãnh đạo Bộ Tư pháp thực hiện một số hoạt động khác để phục vụ công tác xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung Luật TNBTCNN năm 2009 như tổ chức tổng kết 06 năm thi hành Luật TNBTCNN năm 2009, tổ chức các hội nghị, hội thảo để xin ý kiến vào hồ sơ dự án Luật sửa đổi, bổ sung Luật TNBTCNN năm 2009…
Ngày 20/6/2017, tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật TNBTCNN năm 2017.Luật TNBTCNN năm 2017 đã cụ thể hóa và bảo đảm tốt hơn một số quyền con người được ghi nhận trong các công ước, điều ước quốc tế về quyền con người và Hiến pháp năm 2013 cũng như tương thích và không trái với hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành. Một trong những điểm nổi bật của Luật TNBTCNN năm 2017 là tiếp tục kế thừa và bảo đảm hơn nữa một số quyền dân sự, chính trị đã được ghi nhận trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR), Hiến pháp năm 2013 và Luật TNBTCNN năm 2009.
1. Quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017 bảo đảm thực hiện một số quyền con người về dân sự, chính trị
2.1.Về quyền bình đẳng, công bằng
Điều 3 và Điều 26 ICCPR ghi nhận “Các quốc gia thành viên Công ước này cam kết đảm bảo quyền bình đẳng giữa nam và nữ trong việc thực hiện tất cả các quyền dân sự và chính trị mà Công ước đã quy định” và “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và có quyền được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào. Về mặt này, pháp luật phải nghiêm cấm mọi sự phân biệt đối xử và đảm bảo cho mọi người sự bảo hộ bình đẳng và có hiệu quả chống lại những phân biệt đối xử về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hoặc các địa vị khác”.
Kế thừa các quy định của Luật TNBTCNN năm 2009, Điều 2 Luật TNBTCNN 2017 quy định đối tượng được bồi thường, theo đó, cá nhân, tổ chức bị thiệt hại về vật chất, thiệt hại về tinh thần do người thi hành công vụ gây ra thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được quy định tại Luật TNBTCNN 2017. Như vậy, Luật không phân biệt đối tượng là người Việt Nam hay người nước ngoài, cá nhân hay tổ chức, nam hay nữ, v.v. miễn sao các đối tượng đáp ứng đầy đủ các căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được quy định tại Điều 7 Luật TNBTCNN thì sẽ được bồi thường. Mặt khác, Điều 4 Luật ghi nhận nguyên tắc bồi thường của Nhà nước, theo đó, việc giải quyết yêu cầu bồi thường được thực hiện kịp thời, công khai, bình đẳng, thiện chí, trung thực, đúng pháp luật; được tiến hành trên cơ sở thương lượng giữa cơ quan giải quyết bồi thường và người yêu cầu bồi thường theo quy định của Luật TNBTCNN 2017.
2.2.Về quyền được bồi thường thiệt hại
a) Về nguyên tắc bồi thường của Nhà nước
Phù hợp với các quy định tại điểm a khoản 3 Điều 2, khoản 5 Điều 9 và khoản 6 Điều 14 ICCPR về quyền được yêu cầu bồi thường và được bồi thường, trên cơ sở kế thừa các quy định của Luật TNBTCNN năm 2009, Luật TNBTCNN năm 2017 đã bổ sung 01 Điều (Điều 4) quy định về nguyên tắc bồi thường của Nhà nước. Theo đó, về cơ bản, nguyên tắc bồi thường được kế thừa như quy định của Luật TNBTCNN năm 2009.Cụ thể, việc giải quyết bồi thường được giải quyết tại cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại; được kết hợp giải quyết yêu cầu bồi thường trong quá trình giải quyết vụ án hành chính. Đồng thời, Luật TNBTCNN năm 2017 đã mở rộng nguyên tắc giải quyết bồi thường, cho phép người bị thiệt hại có quyền khởi kiện ngay ra tòa án khi có văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án hình sự và thi hành án dân sự; kết hợp giải quyết yêu cầu bồi thường trong quá trình tố tụng hình sự tại Tòa án đối với yêu cầu bồi thường trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án hình sự và thi hành án dân sự (khoản 4 Điều 4). Người bị thiệt hại có quyền lựa chọn cơ chế giải quyết bồi thường phù hợp nhưng khi cơ quan giải quyết bồi thường đã thụ lý yêu cầu bồi thường thì người đó không được quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền khác giải quyết bồi thường.
b) Về phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
So với Luật TNBTCNN năm 2009, Luật TNBTCNN năm 2017 đã bổ sung phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong các lĩnh vực để bảo đảm phù hợp với Hiến pháp năm 2013, các bộ luật, luật hiện hành; đồng thời cũng bảo đảm quyền, lợi ích của công dân, cụ thể:
Trong hoạt động quản lý hành chính (Điều 17): (i) bổ sung 02 trường hợp được bồi thường do bị áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm hành chính trái pháp luật (điểm b và điểm c khoản 3 Điều 17); (ii) bổ sung 01 trường hợp được bồi thường do bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính trái pháp luật“giáo dục tại xã, phường, thị trấn” (khoản 5 Điều 17); (iii) bổ sung trường hợp được bồi thường “không áp dụng hoặc áp dụng không đúng quy định của Luật tố cáo các biện pháp bảo vệ người tố cáo khi người đó yêu cầu” (khoản 6 Điều 17); (iv) bổ sung trường hợp bồi thường do “thực hiện hành vi bị nghiêm cấm theo quy định của Luật Tiếp cận thông tin về cố ý cung cấp thông tin sai lệch mà không đính chính và không cung cấp lại thông tin” (khoản 7 Điều 17); (v) Bổ sung trường hợp được bồi thường do áp dụng trái pháp luật việc “hoàn thuế” (khoản 9 Điều 17); (vi) bổ sung trường hợp được bồi thường do “ra quyết định xử lý kỷ luật buộc thôi việc trái pháp luật đối với công chức từ Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống” (khoản 14 Điều 17).
Có thể nói, việc mở rộng phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính đã cụ thể hóa một số quyền, trong đó có quyền được tiếp cận thông tin. Để cụ thể hóa khoản 2 Điều 19 ICCPR và đặc biệt quyền tiếp cận thông tin theo quy định tại Điều 25 Hiến pháp năm 2013, khoản 7 Điều 17 Luật TNBTCNN năm 2017 đã bổ sung quy định về phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với trường hợp “thực hiện hành vi bị nghiêm cấm theo quy định của Luật Tiếp cận thông tin về cố ý cung cấp thông tin sai lệch mà không đính chính và không cung cấp lại thông tin”.
Trong hoạt động tố tụng hình sự (Điều 18): (i) bổ sung trường hợp được bồi thường do người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp (khoản 1 Điều 18); (ii) bổ sung trường hợp được bồi thường do Pháp nhân thương mại bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án oan (khoản 9 Điều 18). Quy định này của Luật đã phù hợp với khoản 5 Điều 9 ICCPR quy địnhBất cứ người nào trở thành nạn nhân của việc bị bắt hoặc bị giam cầm bất hợp pháp đều có quyền yêu cầu được bồi thường” và khoản 6 Điều 14 ICCPR cũng quy định“khi một người bị kết án về một tội hình sự bởi một quyết định chung thẩm và sau đó bản án bị hủy bỏ hoặc người đó được tha trên cơ sở tình tiết mới hoặc phát hiện mới cho thấy rõ ràng có sự xét xử oan thì người đã phải chịu hình phạt theo bản án trên theo luật, có quyền yêu cầu bồi thường”.
Trong hoạt động tố tụng dân sự, tố tụng hành chính: Điều 19 Luật TNBTCNN năm 2017 đã bỏ lỗi cố ý đối với trường hợp ra bản án, quyết định trái pháp luật và tách thành 02 khoản (khoản 5 và khoản 6 Điều 19) quy định cụ thể hơn căn cứ xác định hành vi trái pháp luật của người đã ra bản án, quyết định.
Trong hoạt động thi hành án hình sự (Điều 20), Bổ sung thêm 01 trường hợp được bồi thường là: “Không thực hiện quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện của Tòa án đối với người bị kết án phạt tù” (điểm d khoản 3 Điều 20).
Trong lĩnh vực thi hành án dân sự: Điều 21 Luật TNBTCNN năm 2017 đã bỏ lỗi cố ý đối với trường hợp ra các quyết định về thi hành án và trường hợp tổ chức thi hành án các quyết định về thi hành án.
c) Về thiệt hại được bồi thường
Luật TNBTCNN năm 2017 đã sửa đổi, bổ sung toàn diện các quy định về thiệt hại được bồi thường nhằm khắc phục những hạn chế, vướng mắc trong thời gian qua, đồng thời bảo đảm việc giải quyết bồi thường nhanh chóng, hiệu quả, cụ thể:
- Bổ sung 01 điều về việc xác định thiệt hại (Điều 22), trong đó, quy định những nguyên tắc chung trong việc xác định thiệt hại được bồi thường.
- Bổ sung các thiệt hại được bồi thường phát sinh trong thực tế chưa được Luật TNBTCNN năm 2009 quy định như: thiệt hại được bồi thường là khoản tiền phạt theo thỏa thuận trong giao dịch dân sự, kinh tế do không thực hiện được các giao dịch dân sự, kinh tế; căn cứ tính mức lãi suất (các khoản 4 và 5 Điều 23); lượng hóa một số thiệt hại được bồi thường như thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút (Điều 24); thiệt hại về vật chất do người bị thiệt hại chết (Điều 25); thiệt hại về vật chất do sức khỏe bị xâm phạm (Điều 26).
- Đối với thiệt hại về tinh thần:
+ Bổ sung một số thiệt hại về tinh thần: (1) trong trường hợp áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn (khoản 1 Điều 27) và (2) trường hợp giữ người trong trường hợp khẩn cấp (điểm a khoản 3 Điều 27) và (3) trường hợp công chức bị xử lý kỷ luật buộc thôi việc trái pháp luật (khoản 6 Điều 27).
+ Tăng mức bồi thường thiệt hại về tinh thần đối với các trường hợp bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự (khoản 3 Điều 27); trường hợp thiệt hại về tinh thần do sức khỏe bị xâm phạm (khoản 5 Điều 27).
- Bổ sung 01 điều quy định cụ thể các chi phí khác được bồi thường (Điều 28).
Thông qua các quy định nêu trên không chỉ thể hiện rõ quyền dân sự, chính trị của người bị thiệt hại mà còn bao gồm các quyền về kinh tế, xã hội như quyền được học tập, quyền được tham gia tổ chức xã hội.
2.3. Về quyền “không bị hạ thấp nhân phẩm”, xâm phạm các quyền và tự do
Điểm a khoản 3 Điều 2 ICCPR quy định trách nhiệm của quốc gia thành viên trong việc “bảo đảm rằng bất cứ người nào bị xâm phạm các quyền và tự do như được công nhận trong Công ước đều nhận được các biện pháp khắc phục hậu quả, cho dù sự xâm phạm đó là do hành vi của những người thi hành công vụ gây ra” hay Điều 7 ICCPR cũng ghi nhận “không ai có thể bị tra tấn, ... hạ thấp nhân phẩm”.
Để nội luật hóa điểm a khoản 3 Điều 2 ICCPR quy định trách nhiệm của quốc gia thành viên trong việc “bảo đảm rằng bất cứ người nào bị xâm phạm các quyền và tự do như được công nhận trong Công ước đều nhận được các biện pháp khắc phục hậu quả, cho dù sự xâm phạm đó là do hành vi của những người thi hành công vụ gây ra” hay Điều 7 ICCPR về “không ai có thể bị tra tấn, ... hạ thấp nhân phẩm”, tại Điều 20 Hiến pháp năm 2013 đã quy định về quyền này. Để xử lý các trường hợp vi phạm quyền bất khả xâm phạm, một số Bộ luật, luật đã được ban hành nhằm bảo đảm thực hiện và cụ thể hóa các quy định này, trong đó có Luật TNBTCNN năm 2017. Cụ thể, Luật TNBTCNN 2017 đã bổ sung một mục mới tại Chương V quy định cụ thể về hình thức, thủ tục, trách nhiệm thực hiện việc phục hồi danh dự và đã bổ sung thêm 02 trường hợp được bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự là người bị bắt và pháp nhân thương mại bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật.
2.4.Về thủ tục giải quyết bồi thường
Luật TNBTCNN năm 2017 đã sửa đổi toàn diện các quy định về thủ tục giải quyết bồi thường nhằm đảm bảo việc giải quyết bồi thường được nhanh chóng, hiệu quả, cụ thể như sau:
a) Thủ tục giải quyết bồi thường tại cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại
- Luật TNBTCNN năm 2017 đã sửa đổi, bổ sung và quy định cụ thể trình tự, thủ tục, thời hạn giải quyết bồi thường tại cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại (Mục 1 Chương V). Đồng thời, bổ sung quy định về việc hoãn, tạm đình chỉ và đình chỉ việc giải quyết bồi thường để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại, không làm ảnh hưởng đến hoạt động của cơ quan nhà nước.
- Bổ sung 01 Điều mới (Điều 44) quy định về tạm ứng kinh phí bồi thường đối với những thiệt hại có thể tính toán được ngay, không cần xác minh.
- Sửa đổi toàn diện các quy định về thương lượng việc bồi thường (Điều 46) theo hướng quy định cụ thể về thành phần thương lượng, địa điểm thương lượng, nội dung thương lượng, thủ tục thương lượng và kết quả của việc thương lượng.
b) Thủ tục giải quyết bồi thường tại Tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự
Luật TNBTCNN năm 2017 đã sửa đổi toàn diện các quy định về khởi kiện và thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường tại Tòa án, trong đó bổ sung quy định người bị thiệt hại có quyền khởi kiện ngay ra Tòa án yêu cầu bồi thường trong 02 trường hợp: (1) trong thời hạn 03 năm kể từ ngày nhận được văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường (điểm a khoản 1 Điều 52); (2) trong thời hạn 03 năm kể từ ngày nhận được văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường, người yêu cầu bồi thường đã yêu cầu cơquan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại giải quyết yêu cầu bồi thường, nhưng sau đó người này rút đơn trước thời điểm cơ quan này tiến hành xác minh thiệt hại (điểm b khoản 1 Điều 52).
c) Thủ tục giải quyết bồi thường tại Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, vụ án hành chính
Để phù hợp với nguyên tắc bồi thường đã được nêu trên, Luật TNBTCNN năm 2017 đã bổ sung 01 Điều mới quy định về giải quyết yêu cầu bồi thường trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, vụ án hành chính tại Tòa án (Điều 55) và giao Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành Điều này.
3. Triển khai có hiệu quả Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 qua đó bảo đảm thực hiện tốt các quyền của người bị thiệt hại
3.1. Kết quả triển khai thi hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017
Để triển khai thi hành Luật TNBTCNN năm 2017 được hiệu quả, kịp thời và đồng bộ, ngày 25/8/2017, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1269/QĐ-TTg ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật TNBTCNN (Kế hoạch số 1269). Trên cơ sở những yêu cầu, nhiệm vụ đề ra tại Kế hoạch số 1269, Cục Bồi thường nhà nước đã tham mưu cho Lãnh đạo Bộ ký ban hành Quyết định số 1628/QĐ-BTP ban hành Kế hoạch triển khai thi hành thi hành Luật TNBTCNN của Bộ Tư pháp (Kế hoạch số 1628). Đến nay, về cơ bản Cục Bồi thường nhà nước đã hoàn thành các nhiệm vụ được giao trong Kế hoạch 1269 và Kế hoạch số 1628. Một số kết quả đã đạt được cụ thể như sau:
- Về xây dựng văn bản quy phạm pháp luật: Cục Bồi thường nhà nước đã tham mưu cho Lãnh đạo Bộ ban hành hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành: Nghị định số 68/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật TNBTCNN; Thông tư số 04/2018/TT-BTP ngày 17/5/2018 ban hành một số biểu mẫu trong công tác bồi thường nhà nước; Thông tư số 11/2018/TT-BTP ngày 30/7/2018 bãi bỏ một số văn bản quy phạm pháp luật do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành, liên tịch ban hành trong lĩnh vực bồi thường nhà nước.
Về rà soát các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến Luật TNBTCNN,ngày 10/8/2018, Bộ Tư pháp đã có Báo cáo số 188/BC-BTP về kết quả rà soát các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến Luật TNBTCNN năm 2017 và ngày 29/8/2018, Văn phòng Chính phủ đã có Công văn số 8155/VPCP-PL về thông báo ý kiến của Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình về kết quả rà soát pháp luật bồi thường nhà nước.
- Về tổ chức Hội nghị quán triệt, triển khai thi hành Luật, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về Luật TNBTCNN, Cục Bồi thường nhà nước đã phối hợp với các cơ quan có liên quan xây dựng bộ tài liệu phục vụ Hội nghị quán triệt, triển khai thi hành Luật tại Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, Cục Bồi thường nhà nước thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến với các hình thức đa dạng như đã phối hợp với Đài truyền hình Việt Nam xây dựng và ghi hình Chương trình phổ biến, tuyên truyền Luật TNBTCNN năm 2017 và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành mới ban hành trên chuyên mục Hộp thư truyền hình - VTV1; phối hợp với Tạp chí Dân chủ và Pháp luật xây dựng Số chuyên đề về triển khai thi hành Luật TNBTCNN năm 2017. Đặc biệt, sau khi Luật TNBTCNN năm 2017 được thông qua, Cục Bồi thường nhà nước đã xây dựng và xuất bản 05 cuốn sách: (1) “Hỏi - đáp về Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (sửa đổi)”; (2) “Những nội dung cơ bản của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (sửa đổi)”; (3) “Sổ tay pháp luật dành cho công chức thực hiện nhiệm vụ cung cấp thông tin, hướng dẫn thủ tục hỗ trợ người bị thiệt hại thực hiện quyền yêu cầu bồi thường”; (4)“Kỹ năng nghiệp vụ giải quyết yêu cầu bồi thường theo quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017”  và (5) “Tìm hiểu pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước”vớisố lượng phát hành là 7.700 bản cho các đối tượng là công chức làm công tác bồi thường nhà nước tại các Sở, ban, ngành, cơ quan thi hành án dân sự các cấp, góp phần kịp thời cung cấp kiến thức pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước theo quy định của Luật TNBTCNN năm 2017.
- Về tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ công tác bồi thường nhà nước, để bảo đảm các quy định của Luật TNBTCNN năm 2017 đi vào cuộc sống, bảo đảm quyền của người bị thiệt hại, Cục Bồi thường nhà nước đã phối hợp với các đơn vị thuộc Bộ, tham mưu cho Lãnh đạo Bộ ban hành Quyết định 797/QĐ-BTP ngày 20/4/2018 về phê duyệt Kế hoạch tổ chức hội nghị, hội thảo, tọa đàm, tập huấn và các đoàn thanh tra, kiểm tra, khảo sát của Bộ Tư pháp năm 2018. Đến nay, Cục Bồi thường nhà nước đã tổ chức 10 lớp tập huấn tại đại diện 07 vùng miền. Đối tượng được tập huấn là công chức của Sở Tư pháp và một số Sở, ngành chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, đội ngũ công chức làm công tác bồi thường nhà nước tại các cơ quan thi hành án dân sự thuộc phạm vi quản lý của Bộ Tư pháp và công chức của Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, các Bộ, cơ quan ngang Bộ và các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp.
Bên cạnh các kết quả đã đạt được nêu trên theo yêu cầu tại Kế hoạch số 1269 và Kế hoạch số 1628, Cục Bồi thường nhà nước đã thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn khác như: hướng dẫn nghiệp vụ giải quyết bồi thường, giải đáp vướng mắc về việc thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước; giải đáp vướng mắc về việc thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và đặc biệt, Trung tâm Hỗ trợ thực hiện quyền yêu cầu bồi thường đã thực hiện việc hỗ trợ người bị thiệt hại thực hiện thủ tục yêu cầu bồi thường và không thu phí.
Ngoài ra, để bảo đảm công tác giải quyết bồi thường được kịp thời, hiệu quả, Cục Bồi thường nhà nước đã thường xuyên thực hiện công tác theo dõi, đôn đốc, kiểm tra hoạt động giải quyết bồi thường, chi trả tiền bồi thường và thực hiện trách nhiệm hoàn trả. Trong quá trình thực hiện công tác này, Cục Bồi thường nhà nước đã thường xuyên phối hợp với các cơ quan chuyên môn của TANDTC, VKSNDTC và các bộ, ngành, địa phương tiến hành rà soát lập danh sách các vụ việc phức tạp kéo dài trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án làm cơ sở cho việc đôn đốc giải quyết bồi thường kịp thời, đúng pháp luật.
3.2. Các nhiệm vụ cần thực hiện trong thời gian tới
a) Hoàn thiện thể chế và tiếp tục tổ chức thi hành có hiệu quả Luật TNBTCNN năm 2017 và các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
Trong thời gian tới, Cục Bồi thường nhà nước sẽ tiếp tục tham mưu cho Lãnh đạo Bộ xây dựng và phối hợp với các cơ quan có liên quan xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật TNBTCNN năm 2017 như xây dựng Thông tư của Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án; phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao xây dựng văn bản hướng dẫn Điều 55 Luật TNBTCNN năm 2017.
Đồng thời, tiếp tục tổ chức thi hành có hiệu quả Luật TNBTCNN năm 2017 và các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành thông qua việc tuyên truyền, phố biến pháp luật về TNBTCNN; xây dựng các tài liệu về pháp luật TNBTCNN để cấp phát như xây dựng sách, tờ rơi, tờ gấp, v.v.; tổ chức tập huấn nghiệp vụ công tác bồi thường nhà nước có chất lượng, hiệu quả nhằm nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức được giao thực hiện công tác bồi thường nhà nước qua đó, nhằm nâng cao nhận thức pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước cho công chức trong bộ máy nhà nước, cá nhân và tổ chức khác.
b) Thực hiện có hiệu quả công tác quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước
Trong năm 2019 và các năm tiếp theo, Cục Bồi thường nhà nước sẽ tiếp tục tập trung thực hiện công tác quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước thông qua việc kiểm tra công tác bồi thường nhà nước theo thẩm quyền hoặc liên ngành có trọng tâm, trọng điểm, trú trọng đến những Bộ, ngành, địa phương phát sinh nhiều yêu cầu bồi thường; theo dõi, đôn đốc việc thực hiện công tác bồi thường nhà nước; hướng dẫn nghiệp vụ công tác bồi thường nhà nước và giải đáp vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật về TNBTCNN; v.v.
c) Tăng cường công tác phối hợp
Để thực hiện tốt các quy định của Luật TNBTCNN năm 2017 và các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành, Cục Bồi thường nhà nước sẽ tiếp tục tham mưu cho Bộ Tư pháp tăng cường công tác phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Bộ, ngành, địa phương trong thực hiện quản lý nhà nước về công tác bồi thường, trong đó chú trọng phối hợp để tập trung giải quyết các vụ việc tồn đọng, kéo dài đã thụ lý theo quy định của Luật TNBTCNN năm 2009./.
Sưu tầm: Trần Thị Thu Hằng - Cục Bồi thường Nhà nước​
FalsePhòng HCTP&QLXLVPHC
Người bị công an phạt 500.000 đồng thắng kiệnTinNgười bị công an phạt 500.000 đồng thắng kiện/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
(PL)- TAND tỉnh Tiền Giang vừa xử phúc thẩm tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Ngọc Chiếu, hủy quyết định xử phạt hành chính của trưởng Công an huyện Gò Công Tây đối với ông về hành vi đánh nhau.
12/20/2018 1:00 PMNoĐã ban hành

Ông Chiếu (66 tuổi, ngụ xã Đồng Thạnh, huyện Gò Công Tây) là người bị công an huyện xử phạt 500.000 đồng gây tranh cãi.
HĐXX phúc thẩm nhận định qua lời trình bày và tài liệu hồ sơ vụ án thấy không có cơ sở cho rằng ông Chiếu có hành vi đánh ông Châu. Việc ông Châu bị thương là do ông Chiếu phản kháng và việc phản kháng này không được xem là có lỗi...
Xét về tương quan lực lượng, ông Chiếu là người cao tuổi, sức khỏe kém, đã có uống rượu. Trong khi đó ông Châu là thanh niên còn trẻ, khỏe, có cha ruột là ông Hạnh trợ giúp cùng xô xát với ông Chiếu. Qua đó cho thấy ông Chiếu không có khả năng chủ động xô xát với cha con ông Châu. Khi xảy ra sự việc, Công an huyện Gò Công Tây đã không lập biên bản vi phạm hành chính kịp thời, đúng hạn quy định nhưng sau đó lại ban hành quyết định xử phạt là sai luật…Từ những căn cứ đó, HĐXX phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của ông Chiếu, sửa án sơ thẩm, hủy quyết định xử phạt của Công an huyện Gò Công Tâyđối với ông Chiếu.
Như Pháp Luật TP.HCM đã đưa tin, tháng 4-2017, sau khi nhậu chung với hàng xóm, ông Chiếu chạy xe máy về nhà gọi điện thoại cho em trai. Lúc này ông Châu đi bộ đến cho rằng ông Chiếu nói xiên xéo với ai đó về mình.
Ông Châu giật điện thoại rồi ôm cổ đánh, đẩy ông Chiếu vào hàng rào. Vợ ông Chiếu can ngăn nhưng không được. Lúc này cha ông Châu chạy qua, vật, bóp cổ, đập đầu ông Chiếu xuống đường bê tông. Ông Chiếu làm đơn yêu cầu khởi tố cha con ông Châu về hành vi cố ý gây thương tích nhưng công an huyện không đồng ý mà còn xử phạt ông 500.000 đồng. Cha con ông Châu cũng bị phạt 750.000 đồng. Sau khi bị bác khiếu nại, ông Chiếu đã khởi kiện.
Sưu tầm: HUY PHONG - Báo pháp luật
FalsePhòng HCTP&QLXLVPHC
Báo cáo công tác bồi thường nhà nước năm 2018Văn bản điều hànhTinBáo cáo công tác bồi thường nhà nước năm 2018/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
Công văn số 1739/STP-HCTP ngày 29/10/2018 của Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương về việc phối hợp xây dựng báo cáo về công tác bồi thường nhà nước năm 2018
10/29/2018 4:00 PMNoĐã ban hànhFalsePhòng HCTP&QLXLVPHC
Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2017Văn bản điều hànhLuật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2017/Style Library/LacViet/CMS2013/Images/newsdefault.jpg
7/4/2018 3:00 PMNoĐã ban hànhFalsePhòng HCTP&QLXLVPHC
1 - 30Next
Ảnh
Video
Audio