Bình Dương là tỉnh thuộc miền Đông Nam bộ, nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Phía Đông giáp tỉnh Đồng Nai, phía Bắc giáp tỉnh Bình Phước, phía Tây giáp tỉnh Tây Ninh và một phần thành phố Hồ Chí Minh, phía Nam giáp thành phố Hồ Chí Minh và một phần tỉnh Đồng Nai. Theo thông tin thống kê mới nhất, tỉnh Bình Dương có diện tích tự nhiên là 2.694,43 km2 (chiếm khoảng 0,83% diện tích cả nước, khoảng 12% diện tích miền Đông Nam bộ); dân số trung bình 2.568.689 người, GRDP bình quân đầu người đạt 151 triệu đồng/năm (Báo cáo của Cục Thống kê Bình Dương ngày 01/12/2020); 09 đơn vị hành chính cấp huyện (gồm: thành phố Thủ Dầu Một, thành phố Dĩ An, thành phố Thuận An, thị xã Bến Cát, thị xã Tân Uyên, huyện Bàu Bàng, huyện Bắc Tân Uyên, huyện Dầu Tiếng và huyện Phú Giáo) và 91 đơn vị hành chính cấp xã (gồm: 41 xã, 45 phường và 05 thị trấn). Thực hiện Nghị định số 55/2011/NĐ-CP ngày 04/7/2011 của Chính phủ (gọi tắt là Nghị định số 55), trong thời gian qua, các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh và các doanh nghiệp Nhà nước do tỉnh quản lý, công tác pháp chế đã từng bước được triển khai thực hiện và đã đạt được một số kết quả nhất định trong các lĩnh vực: Công tác xây dựng pháp luật; công tác rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật; công tác kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật; công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật và kiểm tra việc thực hiện pháp luật; công tác tham mưu về các vấn đề pháp lý và tham gia tố tụng.
1. Về tổ chức và đội ngũ người làm công tác pháp chế
Tại 14 sở, ngành phải thành lập phòng pháp chế theo quy định của Nghị định số 55, hiện nay không còn Phòng Pháp chế (trước đó có thành lập Phòng Pháp chế nhưng dần bị giải thể do Thông tư quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các Bộ chuyên ngành không quy định về việc thành lập phòng pháp chế) và cũng thể không bố trí cán bộ pháp chế chuyên trách. Đội ngũ pháp chế hiện nay của các sở, ngành tỉnh gồm 19 cán bộ kiêm nhiệm, thực hiện tham mưu Thủ trưởng đơn vị trong công tác xây dựng văn bản trước khi trình Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành; phối hợp với Sở Tư pháp thực hiện công tác kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn bản theo quy định, hỗ trợ pháp lý doanh nghiệp, bồi thường nhà nước, theo dõi thi hành pháp luật, quản lý nhà nước về xử lý vi phạm hành chính và một số nhiệm vụ khác do Thủ trưởng đơn vị phân công. Ngoài 14 sở, ngành phải thành lập phòng pháp chế theo quy định Nghị định số 55 thì trên địa bàn tỉnh Bình Dương còn bố trí cán bộ làm công tác pháp chế tại các sở, ngành như: Thanh tra tỉnh bố trí 01 cán bộ pháp chế kiêm nhiệm; Sở Ngoại vụ bố trí 01 cán bộ pháp chế kiêm nhiệm; Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh bố trí 01 cán bộ pháp chế kiêm nhiệm; Công an tỉnh bố trí 06 cán bộ pháp chế chuyên trách; Ban Quản lý các Khu công nghiệp Bình Dương bố trí 01 cán bộ pháp chế kiêm nhiệm. Đối với 02 doanh nghiệp nhà nước của tỉnh: Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Xổ số kiến thiết tỉnh Bình Dương bố trí 02 cán bộ pháp chế chuyên trách và Tổng Công ty Đầu tư và Phát triển Công nghiệp - CTCP (Becamex IDC Corp) bố trí 02 cán bộ pháp chế chuyên trách.
2. Về hoạt động của các tổ chức pháp chế
Công tác xây dựng văn bản: Cán bộ làm công tác pháp chế tại các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh chủ trì hoặc phối hợp với các đơn vị liên quan giúp Thủ trưởng cơ quan lập đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh liên quan đến ngành, lĩnh vực quản lý; chủ trì hoặc phối hợp với các đơn vị liên quan chuẩn bị hồ sơ dự thảo văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến ngành, lĩnh vực quản lý trình Thủ trưởng cơ quan đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia góp ý hoặc đề nghị Sở Tư pháp thẩm định, trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Đồng thời, cán bộ pháp chế còn chủ trì hoặc phối hợp với các đơn vị liên quan tham gia góp ý văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan khác gửi lấy ý kiến. Từ năm 2011 đến 01/4/2021, trên địa bàn tỉnh Bình Dương đã ban hành 813 văn bản quy phạm pháp luật ; nhìn chung, công tác xây dựng văn bản của tỉnh đã đi vào nề nếp, chất lượng văn bản ngày càng được cải thiện; trong đó có sự đóng góp của cán bộ pháp chế ở các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh trong việc chủ trì hoặc phối hợp với các phòng, đơn vị có liên quan thực hiện các bước của quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
Công tác rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật: Phần lớn các sở, ngành tỉnh thực hiện kịp thời, đúng quy định nhiệm vụ rà soát thường xuyên văn bản quy phạm pháp luật. Bên cạnh đó, theo yêu cầu của các Bộ và chỉ đạo của Ủy ban nhân dân tỉnh; đội ngũ pháp chế các sở, ban, ngành liên quan phối hợp với Sở Tư pháp thực hiện rà soát nhiều văn bản quy phạm pháp luật theo chuyên đề, lĩnh vực, địa bàn như: Rà soát văn bản quy phạm pháp luật theo quy định của Hiến pháp năm 2013; rà soát văn bản quy phạm pháp luật có nội dung liên quan đến Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015; rà soát văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự; rà soát văn bản có quy định về thủ tục hành chính trái với Điều 6 Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 của Chính phủ; rà soát văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực quản lý nghĩa trang; rà soát văn bản theo chuyên đề giá; rà soát các văn bản về xử lý vi phạm hành chính; rà soát các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực đăng ký giao dịch bảo đảm; rà soát các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, ... Từ năm 2011 đến 01/4/2021, các sở, ban, ngành tỉnh đã thực hiện rà soát 14.082 văn bản. Bên cạnh đó, cán bộ pháp chế các sở, ngành của tỉnh đã phối hợp với Sở Tư pháp đã triển khai thực hiện nghiêm túc công tác hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật (kỳ đầu từ năm 1997 - 2013 và kỳ hai từ năm 2014 - 2018), kết quả hệ thống hóa đảm bảo tiến độ và chất lượng theo yêu cầu. Đồng thời, trên cơ sở kết quả rà soát thường xuyên, hằng năm, cán bộ pháp chế các sở, ngành cũng phối hợp với Sở Tư pháp rà soát, tham mưu Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh công bố danh mục văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực kịp thời, đúng quy định.
Công tác kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật: Cán bộ pháp chế của các sở, ngành tỉnh chủ trì, phối hợp với các đơn vị có liên quan giúp Thủ trưởng cơ quan phối hợp với Sở Tư pháp thực hiện việc kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật. Từ năm 2011 đến 01/4/2021, đã tham mưu giúp Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện tự kiểm tra 599 văn bản quy phạm pháp luật do Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành. Đồng thời, phối hợp với các đơn vị có liên quan đề xuất biện pháp xử lý văn bản quy phạm pháp luật trái pháp luật theo quy định của pháp luật về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật.
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật: Phần lớn cán bộ pháp chế của cơ quan, đơn vị tham mưu cho Lãnh đạo cơ quan ban hành kế hoạch công tác phổ biến giáo dục pháp luật hàng năm của cơ quan. Nhìn chung, các sở, ngành tỉnh đã có sự quan tâm trong việc bố trí nguồn lực thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; đã tổ chức tuyên truyền trực tiếp được 32.963 cuộc với hơn 1.482.891 lượt người tham dự. Hình thức tuyên truyền chủ yếu đẩy mạnh tập trung tuyên truyền trên phương tiện thông tin đại chúng như: Tuyên truyền trên báo, đài, hệ thống truyền thanh cơ sở, website, các cuộc thi trực tuyến, mạng xã hội (zalo, facebook,...). Nội dung tuyên truyền, phổ biến, quán triệt liên quan đến Hiến pháp; các Luật, Pháp lệnh, văn bản mới thuộc phạm vi quản lý; tuyên truyền các Luật có hiệu lực thi hành trong năm; các quy định liên quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp, đặc biệt tập trung tuyên truyền Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm; các Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế, môi trường, giao thông, bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử, ma túy, vấn đề khởi nghiệp, cải thiện môi trường sản xuất kinh doanh, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, khiếu nại, tố cáo, hôn nhân và gia đình, an toàn vệ sinh thực phẩm, phòng, chống cháy nổ; các hành vi bị cấm và chế tài xử lý, cải cách tư pháp, cải cách hành chính.... Tăng cường tuyên truyền Luật An ninh mạng, các văn bản chỉ đạo của Trung ương, địa phương để người dân nâng cao ý thức trong việc phòng chống dịch Covid-19 và việc đăng tải các thông tin lên mạng xã hội về virus Corona, Đại hội Đảng các cấp,...
Công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật và kiểm tra việc thực hiện pháp luật: Hằng năm, để triển khai thực hiện đồng bộ công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong lĩnh vực trọng tâm, liên ngành của tỉnh, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành các Kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật, cụ thể trong 03 năm gần nhất như: Năm 2019, ban hành Kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động trên địa bàn tỉnh (Kế hoạch số 379/KH-UBND ngày 23/01/2019); năm 2020, ban hành Kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật về bảo vệ môi trường trên địa bàn tỉnh (Kế hoạch số 311/KH-UBND ngày 21/01/2020); năm 2021, ban hành Kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong lĩnh vực trọng tâm, liên ngành trên địa bàn tỉnh (Kế hoạch số 404/KH-UBND ngày 27/01/2021). Trên cơ sở Kế hoạch của Ủy ban nhân dân tỉnh, cán bộ pháp chế các sở, ban, ngành của tỉnh đã tham mưu Lãnh đạo cơ quan ban hành Kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong các lĩnh vực quy định hoặc các lĩnh vực khác tùy vào điều kiện thực tế, phạm vi, chức năng quản lý tại ngành mình và tổ chức triển khai thực hiện. Đối với lĩnh vực theo dõi tình hình thi hành pháp luật theo kế hoạch của các Bộ, ngành Trung ương: căn cứ chức năng, nhiệm vụ được giao và trên cơ sở kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật của Bộ, ngành Trung ương, các sở, ban, ngành trên địa bàn tỉnh hằng năm đã ban hành kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật tại đơn vị mình. Trong giai đoạn từ ngày 25/8/2011 đến nay, Sở Tư pháp đã phối hợp với các sở, ngành liên quan tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh triển khai thực hiện đầy đủ các hoạt động theo dõi tình hình thi hành pháp luật theo quy định tại Nghị định số 59/2012/NĐ-CP ngày 23/7/2012 của Chính phủ về theo dõi tình hình thi hành pháp luật như: Kiểm tra; điều tra, khảo sát; thu thập thông tin và xử lý kết quả theo dõi hình thi hành pháp luật theo đúng chương trình, kế hoạch theo dõi hình thi hành pháp luật được cấp có thẩm quyền của ngành, địa phương phê duyệt. Đặc biệt, đối với công tác kiểm tra việc thực hiện pháp luật, hàng năm Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh thành lập Đoàn kiểm tra liên ngành tiến hành kiểm tra tình hình thi hành pháp luật trong 1 số lĩnh vực cụ thể (thường gắn với lĩnh vực theo dõi trọng tâm, liên ngành của năm). Qua đó đã kịp thời chỉ đạo chấn chỉnh những tồn tại, hạn chế trong công tác hình thi hành pháp luật và kịp thời phát hiện, kiến nghị đối với những khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật.
Công tác quản lý xử lý vi phạm hành chính: Để triển khai thực hiện có hiệu quả công tác quản lý thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương đã ban hành Quyết định số 3205/QĐ-UBND ngày 21/11/2016 ban hành Quy chế phối hợp trong công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật và quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trên địa bàn tỉnh. Qua đó, tạo cơ sở pháp lý trong việc tăng cường sự phối hợp của các sở, ngành và địa phương, xác định rõ nội dung trách nhiệm của Sở Tư pháp và các sở, ngành, địa phương trong triển khai thực hiện nhiệm vụ công tác này. Hàng năm, tỉnh đều tổ chức hội nghị tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ pháp chế, người làm công tác tham mưu xử lý vi phạm hành chính trên địa bàn tỉnh. Các sở, ngành tỉnh cũng đã chú trọng và tăng cường tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ về công tác thi hành pháp luật xử lý vi phạm hành chính cho cán bộ làm công tác quản lý xử lý vi phạm hành chính thuộc ngành, đơn vị mình. Bên cạnh đó, công tác phổ biến các văn bản pháp luật về xử lý vi phạm hành chính được các đơn vị thực hiện bằng nhiều hình thức phong phú như: Tổ chức tuyên truyền, cấp phát văn bản về xử phạt vi phạm hành chính; xây dựng chuyên mục giải đáp pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và phát sóng trên đài truyền thanh, truyền hình; tuyên truyền những quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trên các phương tiện thông tin đại chúng thông qua các tin, bài; các chương trình truyền thanh, truyền hình với tổng thời lượng phát sóng trên 8.000 giờ mỗi năm; phát hành các tờ tài liệu bướm… Đối với công tác kiểm tra, thanh tra việc thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, hàng năm, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh thành lập Đoàn kiểm tra liên ngành kiểm tra tình hình thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính tại các sở, ngành, địa phương đối với 1 số lĩnh vực cụ thể. Đối với công tác thanh tra việc thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, từ năm 2011 đến nay, do không nhận được kiến nghị, phản ánh của cá nhân, tổ chức, báo chí về việc các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh Bình Dương áp dụng quy định pháp luật về xử lý vi phạm hành chính gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp nên Sở Tư pháp và các sở, ngành không tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh thành lập Đoàn thanh tra để thanh tra việc hình thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
Công tác bồi thường nhà nước: Trước ngày 01/7/2018, thực hiện Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009, Nghị định số 16/2010/NĐ-CP ngày 03/3/2010 của Chính phủ và các văn bản hướng dẫn có liên quan; Ủy ban nhân dân tỉnh đã lồng ghép việc triển khai công tác bồi thường nhà nước vào chương trình, kế hoạch hoạt động chung của tỉnh không ban hành Kế hoạch riêng về thực hiện công tác bồi thường nhà nước; đồng thời, chỉ đạo các Sở, ngành, địa phương quan tâm, chú trọng đến việc tổ chức thực hiện công tác bồi thường nhà nước. Tiếp đó, thực hiện Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 (có hiệu lực ngày 01/7/2018), Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Kế hoạch triển khai Luật; đồng thời, hàng năm, Ủy ban nhân dân tỉnh đều ban hành Kế hoạch riêng hoặc đã lồng ghép việc triển khai công tác bồi thường nhà nước vào chương trình, kế hoạch hoạt động chung của tỉnh để triển khai thực hiện công tác bối thường nhà nước trên toàn tỉnh. Trên cơ sở Kế hoạch, văn bản chỉ đạo của Ủy ban nhân dân tỉnh, các sở, ngành căn cứ chức năng, nhiệm vụ của mình đã ban hành Kế hoạch riêng hoặc lồng ghép với Kế hoạch, Chương trình khác tại cơ quan, đơn vị. Việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được thực hiện theo Kế hoạch triển khai Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước; bên cạnh đó, Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo lồng ghép trong Kế hoạch tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật; hòa giải ở cơ sở; chuẩn tiếp cận pháp luật; xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước hàng năm. Sở Tư pháp là cơ quan thường trực, tham mưu cho Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tỉnh chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, địa phương tiếp tục tuyên truyền phổ biến Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và toàn thể nhân dân. Sở Tư pháp tiếp tục thực hiện đăng tải các quy định của pháp luật về bồi thường nhà nước trên trang thông tin điện tử của Sở; đồng thời phối hợp với Báo Bình Dương trong việc biên soạn và cấp phát Tờ gấp pháp luật về bồi thường nhà nước. Ngoài ra, Sở Tư pháp còn tổ chức đăng tin, bài trên website của Sở, Báo Bình Dương những nội dung chính của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009; Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Cán bộ pháp chế các sở, ngành đã lồng ghép việc tuyên truyền về bồi thường nhà nước tại đơn vị mình thông qua các hình thức như: sinh hoạt "Ngày pháp luật"; công tác tiếp công dân; thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, hệ thống loa truyền thanh cơ sở, lồng ghép trong các buổi họp, hội nghị, sinh hoạt đoàn thể, ... Qua hoạt động tuyên truyền phổ biến Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đã giúp cán bộ, công chức và nhân dân nhận thức được ý nghĩa, vai trò của Luật cũng như trách nhiệm giải quyết bồi thường khi phát sinh yêu cầu bồi thường Nhà nước. Số vụ việc đã có quyết định giải quyết bồi thường hoặc bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật là: 02 vụ việc yêu cầu bồi thường nhà nước (bản án của Tòa án: 01 vụ; Quyết định giải quyết bồi thường của Ủy ban nhân dân cấp xã: 01 vụ); tổng số tiền phải bồi thường là: 176.396.528 đồng; tổng số tiền phải hoàn trả: 176.396.528 đồng. Từ ngày 01/7/2018 đến ngày 01/01/2021: Cơ quan cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã và các cơ quan khác có trụ sở trên địa bàn tỉnh Bình Dương chưa có người thi hành công vụ gây thiệt hại phải bồi thường nhà nước theo quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước; không là bị đơn, bị đơn dân sự hoặc người bị kiện trong các vụ án dân sự, vụ án hình sự hoặc vụ án hành chính có nội dung giải quyết bồi thường. Nhìn chung, đội ngũ pháp chế các sở, ngành tỉnh đã giúp Thủ trưởng cơ quan thực hiện công tác bồi thường của Nhà nước theo quy định của pháp luật.
Công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp: Cán bộ pháp chế các sở, ngành tỉnh đã phối hợp với Sở Tư pháp thực hiện tốt các hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trong phạm vi ngành, lĩnh vực quản lý; đồng thời, quán triệt đến cán bộ, công chức, viên chức trên địa bàn tỉnh nhận thức rõ hơn về nhiệm vụ thực hiện hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Thực hiện nghiêm túc việc tuyên truyền, công khai các chính sách, quy định pháp luật liên quan đến doanh nghiệp trên trang thông tin điện tử của tỉnh, của từng sở, ngành; tiếp nhận, giải đáp kịp thời các vướng mắc pháp luật của doanh nghiệp trong phạm vi ngành, lĩnh vực quản lý. Tỉnh Bình Dương thành lập Tổ tư vấn thủ tục hành chính và hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp tại Trung tâm Hành chính công của tỉnh. Từ khi thành lập đến nay, Tổ tư vấn đã thực hiện tư vấn 1.366 vụ việc, trả lời đơn yêu cầu, thư vướng mắc của người dân, doanh nghiệp được 47.691 trường hợp. Ngoài ra, tỉnh đã có Chuyên mục "hỗ trợ doanh nghiệp" trên Cổng thông tin điện tử của tỉnh, nhằm tạo kênh thông tin, tư vấn, hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp; tiếp tục thực hiện đăng tải các văn bản quy phạm pháp luật, các thủ tục hành chính, các văn bản chỉ đạo, điều hành, dự án, quy hoạch của tỉnh trên Cổng Thông tin điện tử của tỉnh, huyện, các Trang Thông tin điện tử của các sở, ban, ngành tỉnh nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tiếp cận được hỗ trợ về pháp lý, nhất là khi thực hiện các thủ tục hành chính, đáp ứng nhu cầu tìm hiểu pháp luật của doanh nghiệp. Trong năm 2020, một số sở, ngành của tỉnh có bài tham luận và cử cán bộ tham gia Hội nghị đối thoại về xây dựng và thực hiện Chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa do Bộ Tư pháp tổ chức tại tỉnh Bình Dương; thực hiện đề xuất hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2021-2026 theo yêu cầu của Bộ Tư pháp.
Công tác tham mưu các vấn đề pháp lý và tham gia tố tụng: Tại địa phương không phát sinh trường hợp cán bộ pháp chế tham gia tố tụng để bảo vệ lợi ích hợp pháp của cơ quan theo quy định của pháp luật. Cán bộ pháp chế tham gia ý kiến về mặt pháp lý đối với việc xử lý các vấn đề trong phạm vi ngành, lĩnh vực quản lý nhà nước; có ý kiến về mặt pháp lý đối với các quyết định, văn bản chỉ đạo, điều hành quan trọng được thực hiện thường xuyên, liên tục thông qua các cuộc họp khi có vụ việc hay thông qua hình thức gửi lấy ý kiến bằng văn bản. Trung tâm Trợ giúp pháp lý thuộc Sở Tư pháp đã tham gia bào chữa; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp qua các giai đoạn tố tụng 852 vụ việc; đại diện ngoài tố tụng 32 vụ việc, thực hiện tham gia tố tụng cho các đối tượng người nghèo, người dân tộc thiểu số trú tại vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, người bị buộc tội hộ cận nghèo, người bị buộc tội từ 16 đến dưới 18 tuổi, trẻ em, người khuyết tật và các nhóm đối tượng quy định tại Luật Trợ giúp pháp lý
Công tác đánh giá tác động thủ tục hành chính: Từ khi Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 có hiệu lực (ngày 01/7/2016), việc đánh giá tác động thủ tục hành chính đối với dự thảo văn bản quy phạm pháp luật tại địa phương diễn ra không nhiều do Luật đã hạn chế việc quy định thủ tục hành chính trong văn bản của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Năm 2018, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành 01 Quyết định sửa đổi một số thủ tục hành chính đã ban hành, việc sửa đổi không làm phát sinh thủ tục hành chính mới, không làm phức tạp thêm thủ tục hành chính được áp dụng. Năm 2019, Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành 01 Nghị quyết có chứa thủ tục hành chính; đây là trường hợp ban hành Nghị quyết thuộc khoản 4 Điều 27 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015. Cán bộ pháp chế phối hợp tốt với các phòng, đơn vị có liên quan trong quá trình xây dựng báo cáo đánh giá tác động thủ tục hành chính.
*Đánh giá chung: Qua gần 10 năm triển khai thi hành Nghị định số 55/2011/NĐ-CP, hoạt động pháp chế trên địa bàn tỉnh Bình Dương đã dần đi vào nề nếp; trong thời gian qua, tại các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh và các doanh nghiệp Nhà nước do tỉnh quản lý, công tác pháp chế đã từng bước được triển khai thực hiện và đã đạt được một số kết quả nhất định. Tuy nhiên, thời gian qua, Thông tư của các Bộ chuyên ngành không quy định về việc thành lập phòng pháp chế tại các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh đã gây ảnh hưởng đến hoạt động công tác pháp chế tại địa phương.
3. Tồn tại, vướng mắc
Những điểm bất cập về thể chế:
Khoản 1 Điều 9 Nghị định số 55/2011/NĐ-CP quy định phải thành lập phòng pháp chế tại 14 cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; tuy nhiên, theo quy định của Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04/4/2014 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 107/2020/NĐ-CP ngày 14/9/2020 của Chính Phủ) thì Phòng Pháp chế là Phòng chuyên môn, nghiệp vụ. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04/4/2014 của Chính phủ, Bộ Nội vụ đã ban hành hoặc phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ soạn thảo, ban hành các Thông tư, Thông tư liên tịch quy định chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, nhưng trong các quy định đó cũng không quy định Phòng Pháp chế trong cơ cấu tổ chức của các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 12 Nghị định số 55/2011/NĐ-CP quy định: "Công chức, cán bộ và viên chức pháp chế quy định tại Khoản 1, Khoản 2 và Khoản 3 Điều 11 Nghị định này được hưởng phụ cấp ưu đãi theo nghề". Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn quy định chế độ chính sách đãi ngộ hợp lý, thu hút cán bộ làm công tác pháp chế.
Những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong tổ chức và hoạt động của các tổ chức pháp chế:
Nghị định số 55 quy định thành lập Phòng Pháp chế ở 14 cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh và căn cứ vào nhu cầu công tác pháp chế, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định việc thành lập Phòng Pháp chế hoặc quyết định việc bố trí công chức pháp chế chuyên trách ở các cơ quan chuyên môn được thành lập theo đặc thù riêng của từng địa phương. Tuy nhiên, do khó khăn về biên chế, các sở ngành tỉnh chỉ bố trí cán bộ pháp chế kiêm nhiệm, trong khi khối lượng công việc công tác pháp chế là khá lớn. Do vậy, cán bộ pháp chế vẫn chưa có sự đầu tư vào công tác pháp chế, dẫn đến hiệu quả hoạt động công tác pháp chế đôi lúc còn hạn chế, chất lượng tham mưu đôi lúc chưa đáp ứng yêu cầu, công tác báo cáo thống kê còn chậm.
Việc phối hợp giữa cán bộ pháp chế với với bộ phận chuyên môn đôi khi còn chưa thật sự chặt chẽ, hiệu quả.
Công tác theo dõi, quản lý, kiểm tra, giám sát về tổ chức và hoạt động của công tác pháp chế còn chưa thật sự chặt chẽ, chưa có hệ thống tiêu chí đánh giá hiệu quả việc triển khai thực hiện công tác pháp chế.
Nguyên nhân:
Thực tế hiện nay, thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước về tinh giản biên chế, tinh gọn bộ máy Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả nên việc bố trí biên chế làm công tác pháp chế ở Sở, ngành còn gặp nhiều khó khăn; đội ngũ người làm công tác pháp có nhiều biến động và phải kiêm nhiệm nhiều việc phần nào ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả công tác pháp chế.
Công tác pháp chế tại các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh đòi hỏi người làm công tác pháp chế ngoài chuyên ngành luật cần có những kiến thức nghiệp vụ chuyên ngành (nhất là những lĩnh vực phức tạp như tài nguyên môi trường, xây dựng, ...); trong khi đó, hầu hết những cán bộ pháp chế chỉ được đào tạo kiến thức pháp luật thuần túy.
Một số cán bộ pháp chế tại các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh chưa tự khẳng định được vị trí, vai trò và khả năng về chuyên môn, nghiệp vụ của mình, chất lượng tham mưu còn chưa cao.
4. Kiến nghị và đề xuất
Bộ Tư pháp và các bộ, ngành có liên quan đề xuất Chính phủ sớm ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung thay thế Nghị định số 55 cho phù hợp với các quy định pháp luật hiện hành. Do vấn đề biên chế tại địa phương còn nhiều khó khăn nhưng thực tế khối lượng công việc công tác của pháp chế là rất lớn; nên địa phương đề xuất xem xét theo hướng quy định bắt buộc phải bố trí cán bộ pháp chế chuyên trách tại các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, đồng hướng dẫn việc xác định vị trí việc làm của người làm công tác pháp chế để đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn được giao trong công tác pháp chế. Đồng thời, bổ sung nhiệm vụ của pháp chế ở cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính của ngành, đơn vị mình cho phù hợp với Luật Quản lý xử lý vi phạm hành chính và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật.
Bộ Tài chính ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện về phụ cấp ưu đãi nghề cho cán bộ, công chức, viên chức làm công tác pháp chế.
Bộ Tư pháp tăng cường công tác tập huấn, đào tạo chuyên sâu; thường xuyên biên soạn tài liệu, sổ tay hướng dẫn nghiệp vụ đối với công tác pháp chế ở địa phương và các doanh nghiệp nhà nước./.
Một số hình ảnh trong hội nghị tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ pháp chế tại Bình Dương: